30/3/25

Bìnhluận về Cảicách TiếngViệt

Phêbình "Sửađổi Cáchviết ChữViệt" của dchph

Ghichú:

Những bàiviết đăngtải sau đây nguyênthuỷ đăng trên Diễnđàn Nôm của Viethoc.com, sauđó đã bị ông Đặng loạibỏ:

From: "Lê Văn Ðặng" <dle1234000@xxxxxxxxxxxxx.com>

This message was sent from: Nôm.
<http://www.viethoc.com/forum/read.php?f=11&i=1794&t=330>
----------------------------------------------------------------

Diễn đàn này không dùng cách viết dính liền.
Các bài viết theo lối này sẽ bị loại bỏ.
Xin kính cáọ

LVÐ

----------------------------

. Ông Lê Văn Ðặng đã cho xoáhết những bàiviết đó cùng trên hàng chục bài viết khác của nhiều ýkiến tánthành và phản đối khácnhau, dài hàng mấy trăm trang. Lýdo là ôngta không ủnghộ cảicách cáchviết mới ChữViệt2020.

Ngàyxưa khi sinhthời đã giớithiệu tôi với ông Ðặng, quảthật là GS Hoà không nghĩ tới lòngngười đôikhi lại hẹphòi và thiểncận như vậy. Ôi những cây cổthụ!

Xin trích thư của GS Hoà:


Date: Sat, 25 Mar 2000 13:17:37 -0500 (EST)
From: wingdinh@ix.xxxxxxxxxxxxx.com
To: dchph@yahoo.com
CC: DLe1234000@xxxxxxxxxxxxxx.com
CC: counsel@xxxxxxxxxxx.com
Subject: bai viet "Suadoi cach viet chu Viet"

Than gui Anh [dchph]:

Lannay, toi da in duoc bai viet cua Anh ve "Chu Viet nam 2020".
Tatca 12 trang kho 8.5 X 11.

Toi denghi Anh in ra nhieu ban de gui tang nhung noi sau day:

1. Giaosu Nguyen Kha('c-Kham, ..........

2. Giaosu Le^ Va(n DDa(.ng, .............

3. Tapchi VAN-HOC, Chubut Nguye^~ng Mo^.ng-Gia'c,...

4. Tapchi HOP-LUU, Chubien Kha'nh Tru+o+`ng, .........

5. Tapchi KHOI-HANH, Chunhiem kiem Chubut Vie^n-Linh,....

6. Nguyetsan VAN-HOA VIET-NAM, ...........

Giaosu Le Van-Dang la nguoi ma toi da moi phutrach phan Chu Nom
trong Vien Viet-hoc. Ong da bo nhieu nam nghiencuu viec chetac
chu Nom tren may diennao, va da gioithieu nhieu tacpham Nom co
ca chu Nom lan ban phien ra chu quocngu.

Hivong may tapchi #3, #4, #5 va #6 co the dang bai viet cua Anh
ve vande daamtiet trong tieng Viet. Can phai da?pha' "huyenthoai
donamtiet" (the myth of monosyllabism) trong tieng Viet. Cac vi
nhu cu LangNhan Phung Tat-Dac (hien o ben Anh), Giaosu Pham Hoang-Ho
(o Canada), Giaosu Duong Duc-Nhu (o Houston) van chutruong viec
viet lien cac amtiet trong moi tu Vietngu (each Vietnamese word).
Rieng toi, thi cho rang khi viet Email tren may diennao, thi rat
co loi neu ta viet lien nhung tu daamtiet trong tieng Vietnam.

Hen thu sau.
Cam-on Anh nhieu.
Nguyen Dinh-Hoa

---------------------------------------

Xin mời vàođây để đọctiếp những bàimới đăng trong tháng 3/2004 đã bị ông Ðặng cho cắtbỏ trên diễnđàn 'Nôm' của Viethoc.com.

Xincảmơn


dchph




NgườiviếtHạ Vy

Nov.13.2002 10:20 am

Em kể cho các anh chị nghe một câu chuyện trích trong tuyện ngắn "Con cái chúng ta giỏi thật" của Azít Nêxin nhé:
Trong buổi họp phụ huynh, một vị dứng phắt dậy phát biểu hùng hồn: "Tôi đề nghị tất cả các môn học phải được dạy bằng tiếng Đức hết, có như thế nước Thổ ta mới phát triển được". Vị này nói tiếp: "Tôi vừa từ Đức về, nước người ta phát triển ghê lắm, đó là do họ dạy tất cả các môn bằng tiếng Đức đấy".

Em thật không muốn tranh cãi làm gì, nhưng cải cách kiểu này sợ quá, không biết rồi ngôn ngữ nước nhà còn đi đến đâu nữa. Không phải chúng ta thấy cái gì hay bên Tây là phải bắt chước ngay cho bằng được.

Trước đây đối với các từ ghép, người ta thường viết với dấu gạch nối, ví dụ như: khoa-học, an-ninh. Cách viết này rất logic nhưng về sau không được dùng nữa vì hơi rườm rà. Nói như vậy để thấy rằng ngôn ngữ luôn được phát triển theo hướng đơn giản hóa, dễ đọc, dễ viết, dễ áp dụng trong cuộc sống thường ngày. Việc các nước Nhật, Hàn, Trung Quốc cải tổ chữ viết của họ cũng không nằm ngoài mục đích ấy. Chính bạn vny2k cũng công nhận việc viết theo cách nào chẳng qua là quy ước, vậy ta nên quy ước thế nào cho dễ hiểu, dễ đọc chứ không nên làm rườm rà thêm ra.

Ngoài ra, đề nghị cải cách của vny2k còn có nhiều chỗ thiếu cơ sở khoa học.

Thứ nhất: Không thể thống kê cho rằng số từ ghép hai âm tiết trong một ngôn ngữ nhiều hơn số từ đơn có nghĩa rằng ngôn ngữ đó là ngôn ngữ hai âm tiết. Không có một ngôn ngữ nào trên thế giới có số từ đơn âm tiết nhiều hơn số từ đa âm tiết cả. Đơn giản là vì số âm mà con người phát ra được là có giới hạn, người ta không thể chỉ dùng các từ đơn để mô tả tất cảc các sự vật hiện tượng mà họ chỉ dùng từ đơn để mô tả các sự vật hiện tượng đơn giản nhất mà thôi. Đối với các sự vật hiện tượng khác, người ta dùng các từ ghép bằng cách ghép các từ đơn lại với nhau. Lấy ngay ví dụ của vny2k: từ "tiếngAnh" là một từ ghép gồm hai thành tố: "tiếng" và "Anh". Vì từ ghép được tổ hợp từ các từ đơn nên số lượng của nó lớn hơn là đương nhiên, điều này ai học sơ đẳng về toán học cũng biết. Nếu nói như vny2k thì trên thế giới này không có ngôn ngữ nào là đơn âm cả.

Thật ra một ngôn ngữ là đơn âm hay đa âm không phải phụ thuộc vào số từ đơn nhiều hay ít mà phụ thuộc vào những yếu tố khác như anynomyous đã phân tích ở trên.

Thứ hai, cách phân biệt từ đơn - từ ghép của vny2k còn nhiều sai sót. Lấy một số ví dụ:

"Thêmvàođó": đây rõ ràng là ba từ đơn chứ không phải một từ ghép, chúng chỉ đứng chung nhau trong một ngữ trạng từ, ra khỏi ngữ trạng từ này, chúng chẳng liên quan gì với nhau cả.

"Mộttrongnhững": cũng là ba từ đơn

"Sinhsauđẻmuộn": một thành ngữ dài như thế cũng được quy là một từ hay sao?

Cứ phân tích như thế sẽ thấy rất nhiều. Và vì gọi tiếng Việt là ngôn ngữ đa âm tiết nên "Sinhsauđẻmuộn" hoàn toàn khác với "Sinh sau đẻ muộn" hay "Sinhsau đẻmuộn". Nên việc phân tích xem chỗ nào là từ đơn, chỗ nào là từ ghép sẽ phải định nghĩa lại rõ ràng. Sau khi định nghĩa lại thì số từ tiếng Việt sẽ tăng khủng khiếp (vì phải gánh thêm các từ mới) trong khi số khái niệm được diễn tả vẫn không đổi. Như vậy hãy xem chúng ta giúp đất nước phát triển hay làm cho nó nghèo thêm vì sa vào một chuyện không đâu?

Hạ Vy

Singapore

-----------------------------------------------------------------------

"Mot y tuong tao bao va rat sang tao, tuy nhien chua duoc hop ly lam."

Ngườiviết"Krazemouse"

Toi co tinh co doc duoc bai viet cua ban ve viec cai cach tieng Viet, va toi thay rang do la mot y tuong tao bao va rat sang tao, tuy nhien chua duoc hop ly lam.

Thu nhat, ve van de tieng Viet la don am tiet hay da am tiet, ban noi tieng Viet da am tiet, hay song am tiet. Toi nghi ban nen xem xet nhung dieu sau :

- Nhung tu co ban cua tieng Viet la don am tiet : mot, hai, ba, bon, nam, sau, bay, nguoi, thu', dat, nuoc, kho ,de, dep, xau, bo, me, anh, em, ban (tuong duong trong tieng Anh la : one, two, three, four, five, six, seven, person, animal, land, water, difficult, easy, beautiful, ugly, father, mother, brother, sister, friend). Co the thay ro la chi du o nhung khai niem co ban nhat, nhung tu goc cua mot ngon ngu, tieng Anh hay mot thu tieng da am tiet nao khac da xuat hien su da am tiet. Hay xem ca cach dat ten cua nguoi Viet nua/ Hay xem trong buoi noi chuyen/chat cua ban, ban da su dung bao nhieu tu don-am-tiet - nhung tu duoc su dung nhieu nhat.

- Vo so tu da am tiet duoc sinh ra do viec ghep 2 tu don am tiet dong nghia voi nhau, voi muc dich tao ra ngu dieu, vi du nhu : ban be, mo mong, am thanh, hinh anh, tot dep...

- Vo so tu da am tiet la tu lay.

Thu hai, ve van de ngon ngu co anh huong den tri tue, toi dong y voi luan diem rang ngon ngu cang ngan gon thi cang tot. Nhung nhung gi ban Nguyen Cuong viet ve viec xu ly thong tin ngon ngu cho thay ban da nham khai niem tu voi lai am. Xet lai khai niem "truong dai hoc", tieng Anh la university, khi doc thi the nao ? U`ni*ver"si*ty (Webster's Revised Unabridged Dictionary, © 1996, 1998 MICRA, Inc.) Nhu vay la 5 am tiet. 3 am tiet hoa ra lai it hon 5 am tiet day ! Con neu muon noi ve khoang trong giua cac am tiet nay thi co the khoang trong giua 3 am tieng Viet se lon hon, vi cac am tieng Anh trong tu nay duoc doc noi giua nguyen am va phu am. Nhung ro rang la neu the, viec viet lien 3 am tiet lai voi nhau se khong giai quyet van de gi ca ! Khi ma nguoi My chap tu "Viet" voi tu "nam" lam mot, ho co doc duoc tu "Vietnam" nay nhanh hon la chung ta doc no khi khong viet lien k0 ?

Thu ba, co le ban cung nen can nhac nhung the he sau se pha hong tieng Viet nhu the nao neu su dung kieu do. Nhung nguoi lan dau nhin thay tu "chimotlan"(only once) se duoc doc no nhu the nao? chim-ot-lan hay chi-mot-lan? "Mangra" la "Mang-ra" hay "man-gra" ? "Hephoi" la "hep-hoi" hay "he-phoi"? Va khi do, loi the khi tach rieng nhung tu goc giup nguoi ta hieu tu moi de dang hon, lieu co con khong? Hay xem khi ghep cac tu goc Latinh va Hy lap lai voi nhau thi cac tu goc bi thay doi den muc nao.

Thu tu, viec dat nuoc cham phat trien la do nhieu nguyen nhan tao thanh, truoc day thi la su go bo cua phong kien va Nho giao, chien tranh, bay gio thi mot phan do nhieu nhieu ap dat khac. Kho co the noi la do ngon ngu duoc. Bao nhieu thu tieng Chau Au la da am tiet ? Vay ma sao van co su phat trien khac nhau, tham chi mot troi mot vuc. Su phat trien cua dat nuoc phu thuoc vao ngon ngu la hoan toan khong co co so.

"Krazemouse"

Date: Tue, 21 Jan 2003 14:48:24 -0800 (PST)

-----------------------------------------------------------------


Author: Ly (---.cisco.com)
Date: Wednesday 02-27-02 10:02 (PST)


PCDong wrote:
> ...
> Bài 2
> -----------------------
> ...
> Nếuđể tựphát không ngưiờiđưadắt, tươnglai của chữViệt sẽ khôngphải ca'ch vie^'t nâ`y mà sẽlà tiengViet khongdau thongqua suphobien của dienthu email!

Tôi hoàn toàn không đồng ý với câu kết luận này của ông. Từ 1979, khi tiếng Việt lưu truyền trên mạng, câu hỏi đầu tiên của người xử dụng mạng lưới là: "Làm cách nào để đánh chữ Quốc ngữ có dấu", từ đó đưa đến sự thành hình của VIQR (VIetnamese Quoted-Readable) để giải quyết vấn đề ở thời điểm ấy. Như thế, cho dù không hoặc có sự "dẫn dắt", chữ Quốc ngữ không nhất thiết đi đến tình trạng viết không dấu như ông đã nêu.
Tình thân,
Ly Vuong



Author:  Mây (xxx.xx.net)
Date:   Wednesday 02-27-02 10:39 (PST)

Kính thưa quý vị .

Không biết những người khác có cảm tưởng ra sao khi đọc bức thơ của ông PCDong, chớ còn riêng trò Mây này mặc dù cũng có chỗ đồng và bất đồng quan điểm với ông PCDong nhưng mà riêng về mặt hình thức trò Mây thấy chữ khít rịt của ông ấy làm cho bài viết ngó sao mà " lăng quằng lít quịt "quá làm trò Mây thấy chóng mặt muốn ...xỉu liền hà...

Ông PCDong ơi !

Trò Mây vô trang nhà của ông thấy bài vở thì trò Mây thích lắm nhưng mà trò Mây ...hong có can đảm đọc hết từ đầu chí cuối bởi vì trò bị ...quay mòng mòng hoài hà ! Tiếc quá đi .

Trò Mâỵ


3

Author: 
Lê Bắc
 (xxx.pacbell.net)
Date:   Wednesday 02-27-02 11:53 (PST)

a) Sự ghép chữ cũng đưa đến nhiều sự hiểu lầm như là không dấu vậy, cho vài thí dụ điển hình, lấy qua những chữ đã dùng ở bài viết trên:

dùimài: (dùi mài) hay (dù im ài) ?
thuyếtphục: "thuyết phục" hay "thu yết phục"
banháng: "ba nháng" hay "ban háng"
nguồngốc: "nguồn gốc" hay "ngu ồn gốc" hay "ngu ồ ngốc"

Vì thế, chưa chắc là lối ghép chữ "cải cách" này tạo sự dễ dàng cho sự xử lý văn bản bằng máy tính. Trong khi chữ quốc ngữ viết rời như hiện tại thì rất dễ dàng được kiểm lỗi chính tả với chỉ bằng một vài qui luật (rule based) đơn giản, (riêng bản thân tôi và bạn bè đã từng soạn ra nhiều rules để bỏ vào các module check lỗi chính tả, một trong những project của anh bạn tôi đã được Microsoft dọ mua).

Tuy nhiên nhìn qua cách viết chữ "cải cách" ở trên thì tôi nghĩ rằng "rule-based" không đủ, phải làm chung với "dictionary-based" nữa thì hy vọng mới có thể run spell check được.

Đó là nhận định của tôi về mặt kỹ thuật.

b) Về mặt khác thì tôi thấy người viết chữ Việt hiện nay viết rất dễ dàng, rất tự nhiên, không cần suy nghĩ. Trong quá khứ đã có những phong trào cổ xúy việc viết thêm dấu gạch ngang vào giữa các từ kép như "quốc-gia", "dân-tộc" v.v.... việc thêm dấu gạch này hợp lý về mặt ngữ học nhưng lại tạo khó khăn cho người viết, bởi thay vì viết ào ào ra liên tục theo mạch văn, thì nay người viết phải khựng lại để nhận định chữ nào là từ kép, chữ nào là từ đơn, chữ nào là từ hán việt để bỏ dấu gạch ngang cho đúng. Những sự khó khăn đó là nguồn gốc thất bại của việc thuyết phục đại chúng viết thêm dấu gạch ngang vào các từ kép.

Cách viết "cải cách" ở trên cũng tạo ra cùng chung khó khăn cho người viết như thế. Ngay cả người viết bài ở trên cũng gặp khó khăn như thế vì cách viết bất nhất: khi thì "sáchtây", khi thì "sách nga". Khi thì "khôngchỉlà", khi thì "không chỉ vì". Khi thì "nói đến", khi thì "nóiđến", v.v.... Không biết người viết bài ở trên có phải khựng lại ở từng chữ viết để quyết định là chữ nào nên ghép, chữ nào không nên không?

c) Thiết nghĩ mọi sự "cải cách" thì phải nhắm tới sự dễ dàng hơn, nhắm tới đại chúng hơn, thì mới là có ích, chứ nếu khó khăn hơn, "chính xác hơn" chỉ để thỏa mãn giới học giả thì sự "cải cách" loại này cuối cùng cũng thất bại mà thôi

Nếu Mao Trạch Đông không kêu các nhà ngữ học soạn ra loại chữ giản thể, ít nét hơn, tạo dễ dàng cho dân mù chữ học mà thay vì đó tạo ra loại chữ nhiều nét hơn, phù hợp với giới bác học hơn thì chưa chắc loại chữ mới phổ thông như ngày nay

Đó cũng là số phận của chữ La tin, một thứ chữ hợp lý, nhưng khó khăn để học.

"Dễ dàng hơn", "nhắm vào đại chúng" là những yếu tố cần thiết trong bất kỳ cuộc "cải cách" nào, chứ không phải là những điều ngược lại.




Tánthành Sửađổi Cáchviết ChữViệt

Ngườiviết: hoangvl

Ngữpháp dínhliền nếu nghiêmchỉnh thì cũng không nỗi tệ đâu. Hãy tùythuộc mà viết dính hay rời. Rules are made to be broken. Nếu đã quen rời thì rời, không phải cái gì cũng dính rồi bảo dínhchùm. Thật ra dínhchùm cũng có thể viết là dính chùm (dính 1 chùm). Tùy theo ngữcảnh và thóiquen. Nữa đó, thóiquen không phải là tiếng Hán Việt gì nhưng thói hay đi với quen nên viết dính cũng chả sao, hoặc ngượclại. Có dính có rời thì nhìn cũng đadạng hơn chứ, phải không các bạn ? Còn gạch nối thì thiếtnghĩ không nên, gạch tay cũng chậm mà gõ dấu gạch trên bàn phím phải thọt ngón út búpmăng lên trên càng làm thêm ngón tay em dài ! Một lợiích rất lớn của ngữpháp dínhliền là có thể ghép âm qua ngữtự đã có sẵn để tạo từ chuyênmôn mới hoặc dunhập các từ đã phổthông. Những ai việncớ viết dínhliền gây nên nhiều hiểulầm, tỉdụ như "thịtrường" trông giống như thịt "rườn" hay thịt sườn thì là tự coithường trí thôngminh của mình. Nhìn ngữcảnh cũng đoán ra được chứ. Nếu nói ghép âm dễ trùnghợp thì thiếu gì ngoạingữ như thế. Nhìn về khíacạnh tốtđẹp thì tiếng Việt mình khi ghép lại có phần phongphú hơn các tiếng khác, thídụ như đang đánh cái thôngđiệp này, nhìn lên góc phải trên có thấy chữ "close current tag". Rúttỉa chữ "current" ra chơi. Tạm dịch là "hiệntại". "Current" chỉ ghép âm, táchrời chữ ra, "cur" và "rent" vônghĩa. Trong khi đó thì "hiệntại" không những là có thanh mà còn tượngý (tới chỗ này ai khótính thì sẽ bảo tượngý có thể đọc nhầm là tượn-gý ; nhưng tượn-gý sao được vì tiếng Việt ta chưa có chữ nào tượn và gý cả ; sau này thì hậuxét). Đúng thế, cái gì cũng phải mất thờigian, không một sớm một chiều được. Hồi xưa, khi ta còn dùng Hán tự để viết, chắc các nhà truyềngiáo Âuchâu chắc cũng gặp phảnkháng khi muốn phổbiến quốcngữ với dạng các mẫutự hiệngiờ. Trải qua vài trăm năm thì cái gì tiện, dễdùng thaythế cái phứctạp lắm khi rườmrà (ngay chính Hántự phồn thể trông đẹp hơn nhưng Hántự giản thể dễdùng bâygiờ cũng được phổbiến ở Trungquốc). Cởimở để theo tràolưu thiênbiến.

Nguồn: www.vietcyber.com/forums/archive/index.php/t-91775.html


Author: DoanHung (xxx.pacbell.net)
Date:   Thursday 02-28-02 01:30 (PST)

Tôi đồng ý với PCDong về viết dính mà không đồng ý về sự không bỏ dấu . Tiếng việt có thanh điệu nên bỏ dấu rất khó nhận ra . Thí dụ như tôi phải suy nghĩ hồi lâu mới hiểu suphobien ! Sao không viết sựphổbiến , có phải là dễ đọc không.

Thí dụ mà LêBắc đưa ra cũng không hợp lý lắm vì nhu*~ng tru*o*`ng ho*.p kho' đo.c cu~ng i't khi xa?y ra .

thuyếtphục: "thuyết phục" hay "thu yết phục" , ai cu~ng hie^?u ngay la` thuye^'t phu.c !

Ne^'u kho^ng pha^n bie^.t đu*o*.c ta co' the^? the^m da^'u ga.ch no^'i nhu* mo^.t tru*o*`ng ho*.p ngoa.i le^ .

Vie^'t di'nh tie^.n lo*.i ho*n la` du`ng ga.ch no^'i.

To^i nghi~ la` su*. ca?i ca'ch đo' co' the^? la`m gia`u ho*n cho tie^'ng vie^.t vi` no' la`m cho vie^.c ta.o chu*~ mo*'i cho kha'i nie^.m mo*'i de^~ da`ng ho*n.

Cha(?ng ha.n nhu* ne^'u ta vie^'t di'nh su*.pho^?bie^'n thi` ta de^~ nha^.n ra đo' la` mo^.t "kho^'i" , mo^.t kha'i nie^.m . Tu*` ti~nh tu*` pho^?bie^'n the^m prefix su*. -> danh tu*` . Ne^'u du`ng quen thi` ngu*o*`i ta se~ de^~ da`ng "la('p" chu*~ su*. va`o .. mo.i su*. đe^? tha`nh danh tu*` mo*'i.

Thie^'u ca'ch vie^'t di'nh ( hay ga.ch no^'i) la`m cho "kha'i nie^.m" tro*? ne^n ro*`i ra.c , kho' na^?y sinh. To^i nghi~ la` đo' cu~ng la` ly' do ma` ta hay pha?i nha?y qua du`ng chu*~ Ha'n đe^? ta.o chu*~ co' ti'nh kha'i qua't ho*n. Tie^'ng thua^`n vie^.t chi? du`ng cho nhu*~ng gi` "cu. the^?" ho*n.

 


Author: 
levietdieu (xxx.k12.ca.us)


Date:   Thursday 02-28-02 09:30 (PST)

Ki'nh gu+?i ca'c qy' vi.,

DDo.c ba`i cu?a quy' vi. ho+n 1 gio` do`ng ho` mo+'i xong. Thich thu' thie^.t, mo+'i la. thie^.t. Nhu+ng ke^'t qua? chu+a bie^'t ddi ve^` dda^u. Toi viet may lo`i na`y la` de^? to? ba`y ca?m ti`nh cua toi ma` thoi.
LVDieu


x X x


Phảnbiện của Ông Tran đỡđòn giùm dchph!

 

Author: Tran (---.sbphrd.com)
Date:   Wednesday 02-27-02 13:37 (PST)

(3) Ngay cả thầy Lê Bắc mà khó lý quá về chuyện tự và từ, Xin thầy bớt hẹp lượng. Tôi nghĩ là xưa nay tiếng Việt ta chỉ học đơn tự mà ghép chứ không ai học khái niệm từ cả. Bởi vậy muốn tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ cấu trúc như tiếng Anh để có thể có một ngữ pháp hẳn hoi thì phải học từ mà thôi. Nếu tự và từ không phân biệt được trong câu thì làm răng mà hệ thống hóa được ngữ pháp vô điện não. Thôi thì tiếng Việt mình ngàn đời sau cũng dịch tay chứ không bao giờ dịch máy được. Nếu phân biệt được khái niệm đơn tự và từ trong câu văn để từ đó biến dạng thể thành một ngôn ngữ cấu trúc hiện đại. Tiếng Hán viết theo phương thể, máy có thể nhận ra vì mỗi chữ mỗi nghĩa. Còn như lấy ví dụ cho chữ Bắt Đầu chẳng hạn thì làm sao máy có bắt trúng nghĩa được.

Mấy ví dụ của Thầy Bắc bắt ngặt lúc ngắn hạn chứ nếu triển khai phương pháp này thì có luật lệ hẳn để không lộn nghĩa chứ. Trong văn suông tiếng Anh thỉnh thoảng có chữ nowhere viết dính thế vì là ngôn ngữ cấu trúc nên có muốn đọc now-here cũng không được.

(2) Còn cái Trò Mây, trò nói chuyện như con nít vậy! Thôi thì gắng vô đọc cái bài trong đó có mấy bài tả chuyện phong lưu chắc trò đọc xong sẽ tươi mát sự lòng sá chi ba cái cay mắt nhỏ nhoi. Mới đụng sơ sơ mà tối dạ như rứa thì đòi chuyện Hán Nôm làm chi. Tiếc hè!!!

Ông Đồng!!!

Cám ơn bài viết của ông. Đọc xong như gặp tri âm. Tính tôi hồ đồ nhưng hiểu chuyện. Lần đầu đọc chữ của ông và hiểu được cái lý tưởng cao xa của ông. Ai chưa thấy thì khi đi học tiếng Trung Quốc đại lục. Học tới pinyin thì thấy phương thức cũng chắng khác chi Quốc Ngữ nhưng cách bố trí câu kéo rất khoa học. Tiếc cho chữ Quốc ngữ, từ thuở đầu đó chỉ là phương tiện mà cứ đánh lầm qua quốc tuý, nghe cải cách là như chạm vào điều quốc tuý vậy. Thế thì tôi viết một câu như sau:

Đức nuốc Dziệc Nem toe cóa buống ngèng nem dzeng híng. Dzeng toẹc toe cóa nguông ngữa chẻng khéc coác dzeng toạc Êng, Phóp, Ngoa, Ho, Tai Bông Nhoa, Bùa Đồ Nhoa choa nêng ngừ Dziệc toa phửa cóa nìm tựi hò buống ngèng nem.

Ai mến yêu tiếng Việt thì cứ chưởi nhưng mà thiệt ra là vậy. Nếu chọn tiếng Quẻng Nem lèm Quốc Ngữ thì là như vậy đó! Lúc xưa tui viết chơi vậy có mấy vị áo dài khăn đóng trịnh trọng nhưng không biết chữ nhất là gạch từ phía nào qua mắng tôi là cố tình bôi bác tiếng của tổ tiên. Tôi mới bảo thôi đi cha! tổ tiên của cha cũng đọc như tui viết vậy đa nhưng có điều cái văn tự ký âm nó bắt cha viết theo phương ngữ Bắc rồi cha tưởng tổ tiên cha nói chớt. Chỉ có điều nhỏ nhoi này mà cãi lộn tới cả sáu tháng lão đó mới thông được để rồi từ đó mới biết cái hay của thổ ngữ mà bớt bồi hồi về quy ước của chữ quốc ngữ. Khi bớt bồi hồi thì mới thấy cần phải cải cách nhiều thứ.

Trở lại vấn đề cải cách, chữ Quốc Ngữ là phương tiện chứ đâu phải là quốc tuý đâu mà cải không được. Có dấu hay không dấu đều quy ước được tuốt tuồn tuột. Nếu ta quy định hệ thống thanh điều bằng chữ cái viết chen vô giữa thì đâu rắc rối làm chi ba cái dấu. Nếu quy ước được như vậy thì không chừng nhân danh địa danh ra tiếng ngoại nó còn chính xác mấy chục lần.

(3) Còn vấn đề cải cách không phải luôn luôn đi tới cái dễ mà là điều hợp lý ở trong trỏng. Tiếng Anh nó có những cái khó rất vô duyên nhưng không ai đề nghị bỏ mà trở thành ngôn ngữ lớn. Tiếnng Việt (quốc ngữ) là thứ văn tự sinh sau đẻ muộn có cải cách thì không đụng chạm chi nhiều tới nền móng vì ký âm thì ai cũng đọc được (Mỹ không biết chi mà còn đọc chớt được, huống hồ). Thế thì, các nhà ngôn ngữ học nên tìm cách chuyển thành ngôn ngữ cấu trúc thì thật là hay. Chứ mất công dùng văn tự tiến bộ là latin mà lại biên theo phương thể đơn tự của chữ Hán. Chữ đồng âm đố máy nào bắt trúng. Một bản Việt văn thì chết cứng không thể nào dịch lẹ qua như Anh, Pháp, Tây Ban Nha được. Trong đà giao lưu ngôn ngữ thế giới sẽ làm tiếng Việt bị hạn chế và làm văn học Việt Nam nghẽn lại . Uổng!!! Chỉ mất công tìm ra vài quy ước là thành một ngôn ngữ cấu trúc về ngữ pháp chứ ngồi đó cứ theo đơn tự mà ngắt câu rồi khen là phong phú thì mấy đời con cháu mai sau khen hoài không hết...

Nếu không có chuyện dịch máy mà ngôn ngữ lập trình thì không thấy cái sở đoản của tiếng Việt. Nay thấy rồi thì phải biến chứ ôm khư khư như mấy cha linh mục gọi chữ quốc ngữ là bảo bối truyền chân của mấy chả thì Hán Nôm cũng không dám đề xướng, quốc ngữ không dám cải cách thì là bảo thủ lạc hậu rồi chứ còn gì!!! Dính lây luôn cả dân tộc. Chưa tởn!!!


Thư gởi Ông Lê Bắc:

Cảmơn ông đã bỏthờigiờ để nêura những ýkiến về vấnđề cảicách tiếngViệt. 

a) Tôi hoàntoàn đồngý với ông Tran và ông Doan Hung về vấnđề tự và từ, một tự cóthể là từ, nhưng trong từ còn có từkép, từghép, từláy v.v.. (xinmời đọc bài Từkép Trong TiếngViệt. Chuyện hiểulầm ông đưara hầunhư rấthiếm xảyra. Một người cóhọcvấn bìnhthường, khôngthểnào hiểulầm được. Ông Tran nêura những trườnghợp trong tiếngAnh có những từ như whatever và nevertheless, although, albeit,  v.v... là những trườnghợp minhchứng.

Trong ýkiến ông bànvề vấnđề kỹthuật, tôi tin là ông đồngý tiếngVIệt là một ngônngữ đâmtiết. Kỹthuật kiểmlỗi chínhtả và thôngdịch bằng máyđiệntoán nêndựa trên cơsở tínhđâmtiết của tiếngViệt để cóthể đạtđến sựchínhxác dựavào ngữcảnh và cấutrúc của từ, tách từ ra từng một âmtiết hay vần trong từ cóthể làm sai ýnghiã bảnthân của từ và âmtiết (vần). Dođó cách viếtrời ngoài vấnđề nhậndạng chữ chậmlại (xinmời xem Ngônngữ và Trítuệ của Nguyễn Cường)gchắcchắn sẽ tạo nhiều saisót trong việcxửlý bằng máyvitính. Tôi nghĩlà trong khodữliệu "database" từvựng khôngnhững phải chứa từ, nhómchữ (đoảnngữ), thànhngữ, mà cònlà cả câu để khỏi có cáinạn dịch lầm "menu" của giaodiện phầnmềm vitính thành "thựcđơn". Kiểmlỗi chínhtả tiếngViệt khôngthể chỉ dựavào mộtvài quyluật  đơngiản. Ngônngữ tựnó đãlà khôngđơngiản rồi. Hyvọng ông và cácbạn ông thànhcông trong côngtrình quymô này. 

Ngàynay trênmạng tiếngHoa có server dịch từ tiếngAnh sang tiếngHán, tuy còn thôsơ và ngônghê nhưng cơbản những người biết ít về tiếngAnh cóthể hiểuđược những thôngtin trênliênmạng toàncầu. Tôi hơi lạcđề đixa nhưng ý tôi muốn nhấnmạnh đến giátrị vượtbực của thôngdịch trangmạng bằng máy tựđộng để dân trongnước có cơhội gianhập tìmđọc và họchỏi trên một thựviện điệntử miễnphí khổnglồ.

bNgườiViệt viết dễdàng tựnhiên vì đólà theothóiquen, và sựthayđổi một thóiquen nào cũng khó, giốngnhư hútthuốclá vậy. Biết cóhại nhưng ngườita bỏ khôngđược.

Vấnđề gạchdấu nguyênthuỷ đólà cáchviết của tiếngViệt trướcđây (chođến thậpniên 70) là nhưvậy, đólà vì thờiđó ngườiviết đãcó ýthức về tínhđâmtiết của tiếngViệt. Nhưng vềsau, bảnchất lườibiếng đã thắngthế và ngàynay khôngcòn mấyai viếtthế. Ông Tran có nếura vấnđề nếu viết chữ sítnhau sẽ làmchậm tốcđộ viếttay, nhưng tươnglai có mấyai còn viếtlách bằngtay, thídụ như phải viếtthư trảlời lòngthòng nhưthếnầy!

Tôi nhìnnhận việcbấtnhất trong mộtsố chữ viếtnối không thốngnhất trong những bàiviết của tôi, mộtphần cùnglà tôi cũng đang trên bước đường thửnghiệm là nên viếtliền những nhómchữ nào, một số dolỗi "chínhtả". Nhưng tómlại, tôi chỉ đềnghị nhưthế, vềsau, cáchviết nào phổbiến là cáchviết dó thắngthế!

c) Ðasố sựcảicách đạtđược thànhcông là nhờ quyềnlực. Mao yêu thơÐường nên còn lưuluyến với chữHán phươngthể -- nhưng chính ông là người đưara đềnghị Latinhhoá tiếngHán!

Nếu khôngcó quyềnlực thì phải có hậuthuẩn của những tậpđoàn có tiềnvàng bạcbiển như côngty Microsoft thì sựcảicách và thayđổi trên một lãnhvực nàođó mớicó cơmay thànhcông -- thídụ như hệthống Unicode, và đây cũnglà trườnghợp cảicách từ một hệthống đơngiản đến phứctạp -- nếukhông chữViệt chưachắc có cơmay toàncầuhoá với tiêuchuẩn mới nầy cũngnhư kếhoạch mang chữNôm vào Unicode! 

 


Kínhgởi Ông Doan Hung:

Cảmơn ông đã ủnghộ ýkiến của tôi về vấnđề cảicách cáchviết mới của tiếngViệt.

Thựcsự tôi không cổvỏ bỏđi dấu trong tiếngViệt -- mặcdù đó cóthể là một hìnhthức lytưởng hơn.  Tôi muốn nêura đây vấnđề là nếukhông có một đườnglối và phươnghướng chung (xinlỗi tôi có dùngsai từ "dẫndắt") thì với cáchviết email hiện nay của đasố ngườiViệt. Và với cáchviết tựphát nầy dầndà sẽ thành một hìnhthức tiếngViệt mới phổbiến trênmạng và khắp nămchâu. Dođó, tôi có viếtbài đềnghị viết email bằng cách viết dínhliền lại vớinhau, một là để gây ýthức về tính dâmtiết của tiếngViệt, hailà cáchviết dínhliên những từ đâmtiết sẽ làmgiảm mứcđộ cóthể gây hiểulầm cho ngườiđọc.

Tôi xinmời ông đọc bàiviết "Viet Email Bang Vietngu2020 Khongzau" để ông thamkhảo.


x X x


Về "Cảicách tiếngViệt" (Bài 1) của Ông Tran ( 2/27/2002)


dchph

Thưgởi ông Tran:

Từchỗ ông đứng ở tưthế đốilập với tôi nay độtnhiên ông lại đứngra biệnhộ cho tôi! Xin cảmơn ông cáiđã!

Ông nói: "Tính tôi hồ đồ nhưng hiểu chuyện." Ðánglẽ câu nầy để tôi nói mới đúng, nhưngthôi khỏinói chứ giờ nóira tôi cảmthấy ngượngmiệng vì giốngnhư tôi đinịnh ông vậy!

Về phêbình của ông cóphần hơinặng đốivới những người đã cólòng với tôi đã bỏchút thờigiờ phêbình bàiviết về sửađổi tiếngViệt. Cóthể là họ có đọc bàiviết của mình nhưng cókỹ không thì khôngbiết! Tôi phục phêbìnhgia phươngTây ởchỗ là khi họ phêbình ai họ thường đọc và nghiêncứu rấtkỹ đốitượng.

Nhữnggì tôi muốn nói thì ông dànhnói hếtrồi thànhthử tôi chẳngbiết nóichinữa, có nói mấyđinữa thì cũng khôngthểnào nói hay bằng ông được. Và nếu tôi khôngmuốn "cuộcchiến" lại tiếptục thì chẳngbiết đến baogiờ kếtthúc. 

Thôithì xin mời quívị quantâm đến vấnđề tiếngViệt đọc bài "Sửađổi Cáchviết TiếngViệt" vì nhữnggì tôi muốnnói phầnlớn đãđược trinhbày ởđấy, vì nếu quívị nhảyngang vào phêphán khi chưarõ ấtgiápgì thì kểra cũng kháoan cho kẻhènnầy. 

Nóivậy có côngbình không cácbạn?

Thưa Ông Trân:

Nóivậy chứ tôi vẫncòn ngứangáy muốn đưara một vài ýkiến về vấnđề ông nêura:

1) Làmsao ông cảđoán là tiếngViệt ta xưakia rấtcó thế là âm gần giống "Quẻng" mà khôngphải là tiếngBắc? Có bằngchứng hay võđoán khôngluậncứ? 

Tôi thì lại nghingờ tiếngViết trướcđây cóthể giốngnaná tiếngHuế ngàynay (tràdưtửuhậu đoánmò thôi -- vì tiếngHuế dườngnhư chỉcó 4 thanhđiệu, và với 4 thanhđiệu này nếu ngườiHuế nói tiếngQuanthoại sẽ trởthành nói tiếngHán giọng Hồnam (cũng bốn thanhđiệu, giọngnói của ông Mao Trạch-Ðông), mà Hồnam (khu ÐộngÐìnhHồ là nơi cóthể là nơi xuấtphát của tổtiên dânViệtnam ngàynay. Nơi mà một sắcdân đã lai Hán nhưng vẫncòn giữ mộtsố tậptục như "connít" lấy vợ! DânViệt mình ngàyxửangàyxưa có tậptục nầy. Và đây cũng cóthể là nơi còn cóngười thờ Hai BàTrưng, là nơi cóthể là Vua Kinh Dương Vương cỡngựa đẻo côngchúa saulưng là người rãi lôngngỗng.... (Xinlỗi, càngdàidòng cànglạcđề!)

2) "Muốn tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ cấu trúc như tiếng Anh để có thể có một ngữ pháp hẳn hoi". Cólẽ câu nói nầy hơisai và lố là ởchỗ tựbảnchất ngônngữnào cũng hàmchứa tựnhiện những quiluật cấutạo âmvận và ngữnghĩa, và đólà "vănphạm" (vănpháp). Vănphạm chỉ là những quiluật mà ngườita rútra từ những gì sẵncó trong một ngônngữ. 

Nhưng ông nói đúng ởchỗlà: phải đưa tiếngViệt đếnchỗ trởthành một ngônngữ cấutrúc (structured language -- tôi đoán chừng là từchuyênmôn nầy vì ông đã đưa tiếngAnh ra làmthídụ, và tuy ông chưa địnhnghĩa từ nầy nhưng hyvọng là tôi đoán tôi hiểu -- ai khônghiểu thì cứ mang tiếngViệt viết từthời Phạm Quỳnh ra sovới tiếngViệt chuẩn ngàynay thì rõ. Cấutrúc của ngônngữ do ảnhhưởng cúpháp tiếng Pháp đã ảnhhưởng ngượclại cáchviết và diễnđạt của tiếngViệt! Rõràng là tiếngViệt ngàynay khôngphảilà tiếngViệt của Ðôngdương Tạpchi, và cũng khôngphải là ngônngữ diễnđạt của thời cụ Nguyễn Du.) Tómlại là hìnhthái cấutrúc quycủ của ngônngữ (baogồm cả cáchviết, cách chấmcâu, cách biệnluận về vấnđề... cứ mang một "essay" trong tờ Times ra phântích thìrõ -- gầnnhư khó ai cóthể cắtbớt chữ câu trong bài luậnvăn đó cả!

3) Ông nói một câu rất chílý, câu mà tôi muốn nóivới ông (nhưng nghĩ khôngra)  khi ông cố bênhvực cho vaitrò HánNôm và hữnghờ với Quốcngữ: "Chữ Quốc Ngữ là phương tiện chứ đâu phải là quốc tuý đâu mà cải không được.(...) Tiếc cho chữ Quốc ngữ, từ thuở đầu đó chỉ là phương tiện mà cứ đánh lầm qua quốc tuý, nghe cải cách là như chạm vào điều quốc tuý vậy.

Nhưng có điều tôi cũng muốnnói là cũngcó "cáiquốctuý" cũng nên "cải", thídụ "thủcựu" và "bảothủ", là những quanniệm, suynghĩ, tậptục... cốgiữlấy cáicũ, xemlà tốt, cứ nânniu mãi khôngdám buôngra, ngạithayđổi sợcảicách -- lấy giátrị của dânmình làm thướcđo cho dânkhác)  Sống ởtrênđời, sáu mươi năm làmấy màsao cứphải hẹphòi vớinhau đểlàmgì...

 

Bài 2

Thưa Ông Tran:

Ðọc bàiviết chântình của ông tôi lại cũng bầnthần mất cảbuổi. Lôngngôn khuamôi múamỏ tưởng chovui mà aidè ông lại để hết niềmtin vào chuyệnngiêncứu về mốitươngquan giữa tiếngHán và tiếngViệt.

Nóithật tàiliệu ghichép đếnnay tạmcđủ với trên 20 ngàn tấmcạt ghichép, nhưng hằngngày lubu chuyệncơmáo, tốivề chỉ đủ chútít thờigiờ cậpnhật trangmạng vny2k, trảlời email... là hếtgiờ. Chẳnghạn như trêng trangmạng tôi có bàinghiêncứu theodạng tựđiển "Từnguyên HánNôm" đang tìmcách chuyểnđổisang unicode, xong lạiphải tạo database, đổira mạng để ngườiđọc muốn biết chữgì, gõ mộtcái là ra! Thế mà dudưa cảnămnay chưa bắttay làm. Tươngtự, cáibài "Introduction to Sintic-Vietnamese" mới viết có đoạnđầu, lại chuyện unicode, rồi cứ lữnglơ... Nói nhưvậy để muốn nói với người đang mongđợi tàisức nhỏmọn của mình để hiểu cái cõiđời trầntục nầy chuyệnáocơm làm mấthếtthờigiờ của mình. Và có phầntrần nhưvậy để vềsau rũi chẳng làmđượctròtrốnggì như đã hứa cũng bớtchútphần hổthẹn!

Nhântiện ông đềcập đến những từ thuầnNôm có liênhệ với tiếngHán, tôi linhđộng "brainstorm" viếtvội (chảcó thờigiờ chứngminh tríchdẫn gìhết ởđây, mộtvài từ "thuầnNôm" có "gốcHán" theo bảngliệtkê dướiđây. Hyvọng là mìnhkhông múagậy vườnhoang, cógì saisót xin chỉgiáo cho. Xin cảmơn.

Mong ông và các bạnđọc khác bỏchút thờigiờ suyngẫm có nên xếp tiếngViệt vào ngữhệ Mon-Khmer haykhông. 

Tìnhthân.

dchph

Hán Việt PinyinQuảng Đông HảinamThuầnNôm
xiékbátbiết
(la)niếula4niao3--nìu(đi) tiểu, đái
thuậnlợishun4li4shùnlèisuôngsẻ
(hiếu)thuận(xiao4)shun4(hiếu)thảo
sanhxian1sángtesinh, đẻ
thanhsheng1shwéngtieatiếng
thínhting4(théng)kieanghe
hoảhua3wảlửa 
thích(thanh)ci4qing1xâmmình
ố (?)er4xxxiả
(?)geng1canh
uỷwei3(bàn) ủi
canhgeng1càng
tháidươngtai4yang2tháiyuèngtrờinắng
nhãnyan3ngãnnhìn
mụcmu4mụkmụkmắt
phấnfen3fảnhhwunbún, bột, phở
hộihui4hùiwùihop, hụi, hẹn..
tươngjiang1 (như xìdầu)sẽ 
khứqu4huóikhwụđi
giangjiang1kóngsông (krong)
chuốijiu4jíuchiếuchuối
yu3wyịmưa
vânyun2wànmây
sươngvụ (?)xiang1wu4sươngmù
phụfu4fóubụa, vợ
phụfu4bố
tie4đetía
mẫumu3máimẹ, mái
kêmẫu (Phướckiến và Hảinam)ji1mu3(cấy)mòucaimáigàmái
kêcông 
(PK và HN)
jígong1(cấy)kungcaikônggàtrống
xache1xe, cộ
laluo2lưới, chài
khoái(điểm)kuai4(dian3)fai(tí)mau(lên)
tuýchui4say
ẩmyin3yẫmuống
thực ?chi4sựkxơi
phiêu ?piàotiểuđéo
bàng (?) đạipang2da4bựto
huyềnxuang2đen
hắcheiháktối
muộnmen4buồn
ma3beitê, mê
đãidai4đợi
liênlian2liènsen
lụcliu1sáu
hảohao3hỏuhồhay
khốcku4khụkhóc
vânyúnv.v và v.v...


x X x


Trảlời của Ông Tran

Author: Tran 

(---.sbphrd.com)
Date:   Thursday 02-28-02 07:37 (PST)


Ông PC,

Có lẽ cách viết trào lộng làm ông hiểu lầm ý chăng? Chẳng qua là tôi đưa ra một lô một lốc để phá cái chấp về cách nhìn quốc ngữ. Khi người ta thấy được vai trò của nó là một văn tự ký âm có thể ghi xuống được các lối phát âm của thổ ngữ để từ đó khai thác các ưu điểm mà văn tự ký âm có thể mang lại . Tôi không bao giờ nói tiếng Việt là do tiếng Quẻng hay bất cứ một thổ ngữ nào làm chuẩn mà các thổ ngữ đã tạo nên tiếng Việt. Khi nhập nhằng với phương ngữ Bắc ta lại vô tình bỏ qua các yếu tố địa phương mà lần mò gốc tiếng Việt. Chuyện hơi xa đề! Ví như nghiên cứu Hán cổ thì phải đi tuốt hết các tỉnh lị Trung Quốc, tiếng Khách Gia, tiếng Việt Nam vv để lập bảng so sánh. Tiếng Việt ta nghiên cứu cứ đóng khung trong Quốc Ngữ lại chiếu vào sở học do Tây để lại mà người sau lại cứng nhắc không uyển chuyển nên hể đưa ra cái gì dù là chuyện cần thiết cũng bị trấn nước trước đã.

Còn vấn đề thứ Hai, do sinh sau đẻ muộn và không nên đánh lầm với quốc Tuý như các văn tự Anh, Pháp vv nên từ đó ta cũng có thể lập ra quy ước để dần dần đưa tiếng Việt thành một ngôn ngữ "cấu trúc" để thuận tiện cho con cháu sau này khi dùng văn tự latin. Còn gì hay hơn, khi người ngoài muốn hiểu một sự kiện gì về VN chỉ cần nhấn máy một cái là bản Việt văn nó thành Anh văn, Pháp văn. Dù là văn sống sượng nhưng cần thiết biết mấy. Cái ngôn ngữ bây giờ với lối viết La Đinh Phương Thể như hôm nay là sở đoản khó lòng khắc phục. Khi tôi nói cấu trúc là có ý hướng tới chuyện đó chứ không phải nói tiếng Việt không có "cấu trúc" và không có "ngữ pháp". Mình cần liệt ra loại này thật rõ ràng chứ không để mờ mờ ảo ảo. Đại khái hơi hồ đồ một chút là khi ta đã lỡ bắt chước mẫu tự latin thì nên khai thác tất cả các sở trường mà mẫu tự latin hiện đang chiếm ưu thế trên thông tin. Chứ ai dè dòm thì như latin mà khi đánh phải có phần mềm. Tôi rất lấy làm xót xa chuyện này nên cũng như ông tìm một phương pháp giải quyết. Mà đã tìm phương pháp giải quyết rồi thì làm cho tới là tuỳ cơ theo kỷ nghệ thông tin mà biến luôn thành cấu trúc để dịch qua dịch lại cho tiện. Nghe thì khó lắm nhưng mà nếu có đổi thì với chữ nghĩa latin thì người học lại cũng độ ba tháng là xong. Khó đọc cũng đâu khó bằng chữ vietnet thế mà thiên hạ dùng máy ở hải ngoại thông thạo.


---------------------------


Riêng tôi thì tôi cũng có tìm hiểu như ông nên các nhận xét của tôi ngoài vấn đề diễn đạt sẽ không khác nhau là mấy đâu. Hy vọng là như vậy! Dù có đụng chạm nhưng thực sự mà nói theo tình tự thì tôi đã vui mừng khi ông đáp lại bài về các vấn đề Bách Việt. Chẳng qua không biết mà thôi, chứ biết hai người là một ai mà làm như vậy! Mất lòng lắm!!! Cứ bần thần suốt buổi.

Lại nói tới vất đề đề lập bảng để tìm ngữ hệ Hán Tạng tôi cũng có lập đâu đựợc khoảng vài trăm từ. Tôi chỉ so được với âm Quảng Đông và tiếng Phổ Thông còn các phương ngữ khác thì không biết.

Sau đây là vài luồng nhớ mài mại trong đầu

Hán Việt PinyinQuảng Đông Thuần Nôm
VạnWanmànmuôn
VọngWángmòngmong
VõngWangmạng (lưới)Võng La = Mạng lưới
HoàngHuángWòngvàng
Cát  cắt
Chou xấu
Lũng   luống (cày)

đại khái là nếu có phương pháp thì nhiều chữ cứ tưởng là thuần Nôm lại có liên quan từ thời tối cổ Bách Việt, và các nhà nhân chủng cũng đã có kết luận các chữ Hán là do kết cấu một phần rất lớn của Bách Việt với Trung Nguyên.

Hôm đó, đọc các chữ của ông tôi cũng nghĩ chúng ta đang theo môt phương pháp như chữ đái (tiểu tiện) thì liên hệ tới chữ niệu (quả là không sai). Vì có chữ điểu tiếng pinyin là niao. Nên chi sự xung động này không phải là tình cờ mà có, nếu tìm các từ liên quan chắc chắn sẽ còn nhiều.

Hy vọng, sẽ còn nhiều trao đổi, nhất là sau công trình của ông lật đổ cái thuyết Mon-Khmer do thằng Tây thực dân không biết mô tê mà viết xuống tạo một tiền đề rất vô duyên cho giới sử học, thế là các nhà sử học tay ngang nhảy vô ăn có. Có một ông Linh Mục viết sách kêu gọi quốc dân VN nên chối bỏ luôn Quốc Tổ Hùng Vương vì tính theo sử cũ thuộc dòng Tàu. U mê tới mức đó là cùng!!! Rồi ba cái thuyết Vi Va gì đó ra đời toàn hướng dẫn sai lạc hết. Chỉ do cái tiền đề Mon-Khmer này tạo ra. Thay vì Bách Việt ta có thể nối kết với các dân tộc Tày Nùng và tận Hoa Nam làm anh em thì tự mình ly khai tình tự với đa số trong bản địa lại đi làm con của tiếng Miên (chỉ có mấy triệu) gốc từ Mã Lai (cũng trên dưới 20 triệu). Chuyện ngược đời. Nếu như rứa thì Việt Nam ta phải là chủ thể vì đông hơn chứ!

Thân tình

---------------------------------------------------


Bìnhluận

Cải cách tiếng Việt 

Author: Tran  
(---.phil.east.verizon.net)
Date: Sunday 02-24-02 22:28 (PST)


Ông PCDong,

1) Theo chân ông tôi qua tuốt bên vny2k.com vì thấy ông đánh tiếng Việt lạ. Tôi đọc trúng một bài dài lê 
thê của cái tay tên là dchph nghe phiền quá. Thì cứ vạch ra một kế hoạch bảo là nên viết sít chữ lại cho máy vi tính nó dễ nhận diện chữ để xử lý thông tin chứ viết rời thì máy nó không nhận được ít 
nhất là chuyện phiên dịch bằng điện tử. Thế mà cái tay này táy máy chọc cho phạm vô cái chuyện truyền thống văn hóa trong văn tự mà cương ẩu. Viết như rứa thì ngứa mắt, thì bị phản đối là phải rồi. 

2) Bởi rứa, nói mấy chuyện này nên trụ thật mạnh trên các giá trị cố định về văn hóa chứ tồ tồ không nâng niu những tình tự gọi là quốc tuý thì chẳng khác nào đào nghĩa địa để khai hoang trồng lúa trồng đậu. Biết là có thu hoạch nhưng chả mấy ai muốn làm. 

3) Tay này khi bàn về tiếng Tàu nói ẩu hơi nhiều vì hiện nay trên các web tàu cứ đánh chữ Hán rời tới mấy ô cũng tìm search được nên chi lý luận đa âm tiết coi chừng bị hớ. 

Chữ Quốc Ngữ theo như Đào Duy Anh thì ý nghĩa hàm hồ, nhưng dùng riết cũng quen đố ai dám cải tổ nếu không có quyền hành - vì như mình cứ chơi thổ ngữ mà có ai bắt lỗi là mình phang ngay. Cải tổ chữ quốc ngữ là chuyện ruồi bu vì nó dễ quá chỉ có quyền là xong chứ đâu mà phải trình bày này nọ. 

4) Nếu mà đã có ý đó thì mần răng mà tạo được tiếng Việt có thể đả thông được một đại ngôn ngữ cho luồng văn học VN có thể giao lưu. Coi trong sách cũ các văn nhân Việt Nam đề được liệt trong sách vở của Tàu. Mở sách Từ Hải ra thì Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương đều có, chứng tỏ khi dùng Hán Nôm mùi văn học của ta dù ở thế phiên thuộc triều cống vẫn bay xa ngàn dặm. Nghe đâu bên Tàu ngày nay văn học chữ Quốc Ngữ của VN chúng nó chỉ ngửi được nghe đâu cái xác chết của lính Mỹ làm phân bón ruộng trong "Bức thư Cà Mau". Văn Tự Quốc Ngữ là văn tự Tây ám, không giao lưu được vì người biết chữ quốc ngữ đơn thuần như đóng cửa ăn mắm. Thời xưa, dùng chữ Hán Nôm, thấy VN viết sách gì sách Tàu cũng liệt vô hạng mục. 

5) Phải coi lại điểm này để biết được cái thâm hậu của văn tự chứ cải tổ làm chi nghe nói đâu chỉ cần khoảng 10 mẫu tự là viết thành ngôn ngữ ký âm mà máy 
nào cũng đọc được. 

Mình chẳng tha thiết với chữ Quốc Ngữ vì có nó mà dân mình chẳng đọc được chữ Hán chữ Nôm đã là thiệt thòi, còn bây chừ đổi cho khác lạ thì không chừng cháu nội của mình lại đem bỏ thùng rác mấy lời mình định để lại cho chúng. 

6) Cách mạng thì cũng vừa thôi chứ cứ hớn hở theo luồng gió Tây mà mất đi căn bản thì thành bồi. Ai dè đề nghị flý = phi lý hoặc là họas = hoạ sĩ, nghệs = nghệ sĩ. Bởi rứa có người nói người Việt vốn thích bắt chước mà không sáng tạo cũng đúng. Hàn Trung Nhật họ không cải qua chữ Latin vì sợ mất bản sắc, đứt mạch với luồng văn hóa mà họ rất tự hào. Họ chỉ trung dung và rất thành công giữa cũ và mới cho nên luồng Hán Văn lại phát triển rất dũng mãnh trên lãnh vực thông tin. Các giống người trên không có cái nhìn đực mặt trên di sản của tổ tiên như người Việt ta. 

7) Tưởng có ý chi mới mẻ thì ra chỉ cổ suý chuyện viết sít mà tay đồng chí đó làm rộn luôn cả trang web. Mọi người đều viết theo! Mình cũng thích cách viết sít nhưng phải giải quyết được các dấu chứ viết là thói quen. Tuôn ra một tràng rồi quay lại bỏ dấu lên từng âm là khổ mấy đứa con nít viết chính tả.

8) Chừng nào có đề nghị nào nhằm phục hồi một phần Hán Nôm trong sự cải cách thì nói, còn không thì nên chuyện đâu để đó! Đổi làm chi nữa vì nó đâu phải là vật cản của sự tiến bộ. 


Bài 2

Cải cách tiếng Việt 
Author: Tran (---.sbphrd.com)
Date: Monday 02-25-02 08:16 (PST)

Ông PCDong,

9) Sáng nay tôi lại qua bên vny2k mới biết được ông và công việc của ông. Tôi cũng áy náy trong lòng vì sự phê bình hơi gắt gao bài viết trên mặc dù ông cũng biết tôi đồng ý với một số ý tưởng của ông. Hy vọng ông sẽ không để trong lòng vì chúng ta chắc hẳn có nhiều điều trao đổi học hỏi. 

10) Có lẽ ông học tiếng Trung Quốc trước rồi mới quay về cổ học nên có nhiều sự nhận định mà theo tôi không sâu để đủ sức thuyết phục. Đáng lý ra tôi đồng ý nhưng khi thấy ý ông hơi phủ nhận về mặt khách quan của một thứ văn tự lớn nhất thế giới mà chứa đựng bao nhiêu tư tưởng và giá trị ở trong đó nên tôi lại sinh khí. Thật tiếc!

Hôm qua! tôi đang trên đà viết bài "đáp lễ" với Thị Nở, còn lại báo gân guốc đã trút lên ông. Nghĩ lại thấy thật là không phải. Nhưng ít nhất tôi rất thẳng thắn với mọi người. Hy vọng, ông sẽ hiểu .

Về vấn đề ngữ hệ, nguồn gốc dân tộc tôi có thật nhiều quan niệm giống như ông và hiện tôi cũng đang dịch một cuốn nghiên cứu của một nhà nhân chủng học về các chủng Bách Việt mà chính yếu là 
người Nùng (Zhuang). 

Trở lại vấn đề ngôn ngữ, về mặt khách quan, chúng ta không thể nào phủ nhận được sự phát triển rất dũng mãnh của Hoa văn mà không tìm lại thế đứng cho Việt Nam khỏi bị choáng ngợp vì luồng ngoại ngữ đó. Thế thì không gì hay hơn phải khai thác lại nguồn Hán Nôm vốn liếng để giữ bản sắc. Còn nếu không cứ đi học tiếng Trung quốc đại trà mà chối bỏ đi yếu tố ngữ cảnh thì lại phí sức không vun bồi được gì nó sẽ thoảng qua như tiếng Pháp tiếng Nga mà thôi. Tôi đồng ý với văn tự Latin quốc ngữ, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam nên định vị để biết thành một thứ ngôn ngữ đa âm tiết mang tính cấu trúc nhưng cái này chỉ là phương tiện chứ không thể biến thành quốc tuý . Cũng như Trung Quốc họ có pinyin và chữ Hán thế thì Việt Nam ta không việc gì phải bỏ chữ Nôm triệt để như vậy. 

Nếu có học chữ Nôm để đả thông chữ Hán khi cần thì đó là việc phải làm chứ không phải lựa chọn muốn hay không mà có thể là cạnh tranh sinh tồn.

Hy vọng không quá xa đề.

11) Nói chung sự cải cách tiếng Việt không thật sự to lớn vì như ông biết chữ Latin nó làm cho người Việt mình càng nông cạn và sinh ra lười biếng coi thường tiếng mẹ đẻ vì thực sự khó tìm được sự tự hào chân chính nếu học Hán Nôm. Tôi cố tìm cho ra mà chả thấy ở đâu cả. 

Nếu ra hải ngoại ông thấy người ta hay dùng kiểu chữ vietnet, (thu+' chu+~ nhu+ va^`y co' the^? hoa'n ddo^?i) tôi cảm thấy thật giản tiện. Đó có lẽ là sự sáng tạo ngẫu nhiên đâu cần đề xướng. Tôi đáng đánh nó để thành tiếng Việt và nó vẫn tiện lợi nhưng không ai cho nó vào chính thống cả. Nếu chiếu qua lăng kính quốc ngữ thì sự đề nghị của ông nếu không phạm vào những điều quốc tuý thì được nhiệt tình ủng hộ ngay. 




Lời Biệnbạch

Về những lờiphêbình của Ông Tran đốivới vấnđề "Cảicách TiếngViệt "

by dchph

Kínhgởi Ông Tran:

 Xin cảmtạ là đã phêbình bàiviết của tôi, rất sâusắc và thẳngthắn. Tôi xin mạnphép dùng nơinầy để trảlời những vấnđề ông nêura về "Cảicách TiếngViệt"

1) Tôi và mộtsố người nữa nhậnthấy cáchviết của chữViệt của chúngta ngàynay không phảnánh đúngmức trìnhtrạng tiếngnói của ngườiViệt chúngta nên đềxướnglên cuộccảicách nầy; khôngchỉlà để đơnthuần xửlý hay phiêndịch qua máyvitính. Dođó ông đã nói đúng, bànđến vấnđề nầy khôngthể không bànđến vấnđề vănhoá Việtnam. Chỉvì ýthức của tôi về vấnđề vănhoá cólẽ còn hờihợt nên gặp vịthứcgiả hiểubiết nhiều như ông khi đọc cảmthấy, "áicha, tên nầy muáriềuquamắtthợ. Bahoa khoáclác mộtcây!" Xin thànhthực ghinhận lời chỉgiáo của ông để sửađổi và cầumong được sưủnghộ của ông cũngnhư mọingười để dấyđộng phongtrào cảicách Việtngữ.

2) Tôi đồngý với ông rấtnhiều về điểm nầy. Theo tôi nghĩ ngườiViệt chúngta cứ tựhào về "bốn ngàn năm vănhiến," "Truyện Kiều còn thì chúngta còn..." v.v... nhưng nhìnlại trong lịchsử dườngnhư trong bấtcứ thờiđiểmnào đấtnước chúngta nhìnlại cũng còn thuasút nhiều nước trên thếgiới. Giátrị vănhoá thì cóđó nhưng dườngnhư ngườimình thích nângniu đánhbóngnhững giátrị đó hơnlà biết củngcố và khaitriển những ưuđiểm mình có để tiếnmạnh tiếnnhanhhơn trên dònglịchsử như các nước Nhật Trung Hàn. 

3) Khi tôi nóiđến sựthểhiện tínhđâmtiết trong tiếngHán là muốn nóiđến cáchviết pinyin trên những tàiliệu giấytờ chínhthức của họ chứ không nói đến chữHán phươngthể. Trungquốc không ápdụng luậtđâmtiết vào cáchviết nầy (nhưng ngườiÐạihàn, cũng sửdụng chữ phươngthể, viết thành từngnhóm). Xinnóithêm khôngphải ngườiTrungquốc nào cũng biết pinyin -- đốivới nhiều người, pinyin là một "thứ chữ ngoạilai."

Ðồngý với ông là ngônngữ và văntự đều dựavào thóiquen. Cảitổ chỉ thànhcông khi có "quyềnlực" ápđặt lên, nếukhông thì đúnglà làm một chuyệnruồibu. Nhưng nếu ta không làm thì cơhội thựchiện việccảitổ là khôngcó. Biếtđâuđó mộtngàynàođó sẽcó một nhânsĩ hay tríthức nàođó ủnghộ chuyện nầy lên nắmquyền -- cóthể lắmchứ! Ðâuphải ai cũng mê thơÐường như Mao Trạch-Ðông mà bỏdỡcơhội cảitổ Latinhoá tiếngHán, và đâuphải ai cũng mê HánNôm như ông mà bỏbê Quốcngữ?

4) Theo tôi nghĩ, Quốcngữ, theo ýnghĩa là dùng mẫutự Latinh để viết. là một thựcthể khôngthể phảnhồi được. ChữQuốcngữ đã manglại nhiều lợích trong việctruyềnbá thôngtin và trithức của nướcnhà. Tuynhiên tôi cũng đồngý với ông về điều ông đưara và ước đượcthấy HánNôm được phụchồi như một bộmôn ngữvăn, vì HánNôn là chiếc cầunối của quákhứ và tươnglai. Sựxuấthiện của Quốcngữ quảthực đã làmđứtđoạn tínhliêntục của vănhoá Việtnam. Trong khotàng thưtịch hiếmhoi của Việtnam chỉ tínhđược từ thếkỷ thứmười vềsau. Mộttrăm năm ứngdụng Quốcngữ đã làm vịthế và vaitrò của HánNôm giảmđến mứcđộ cơhồ khôngcòn baonhiêu người mặnmà với nó nữa. Cólẽ chính vì lýdo đó mà mộtsốngười chỉ đọcsách Tây nghiêncứu bachớp banháng về nguồngốc Việctộc rồi xếp dânViệt vào dchủngNamÁ và ngônngữ thuộc ngữhệ Mon-Khmer thì cũng chẳngcógìlạ, chưakể cáicâu khinhmạn đầy ýnghĩa khinhmiệt hàmý chê tiếngViệt lạchậu đã được nhiều nhàngữhọcViệtnam chỉ biết tiếngTây TiếngNga mà nghiêncứu vể tiếngViệt: "La langue Annamite est une langue mono-syllabic et isolée" (TiếngViệt là một ngônngữ đơnâmtiết và đơnlập!)

5) Không chốicải Hánngữ là một ngônngữ được nhiều người nói và nghiêncứu nhấtthếgiới và đó cũng là một văntựsống đã lưutruyền đếnnay trên ba ngàn năm. Nhưng thựcsự ngônngữ nào về mặt hìnhthức biểuhiện cũng có khuyếtđiểm của nó. Và không chỉ vì những ưuđiểm nổibật của nó màthôi mà ta đòi trởlại việcphụchồi HánNôm làm văntự chính như ông đềnghị. Ðó chỉlà một mơước khôngthểnào trởthảnh sựthật. Tuynhiên, chuyện họchỏi HánNôm nếuđược thựchiện songhành trongviệc giảngdạy Quốcngữ để conemchúngta hiểubiết nhiềuhơn về cái "quốchồn, quốctuý" của mình là chuyện cóthể thựchiệnđược. Nhưng nóichocùng, xứmình còn nghèoquá, miếngăn còn bậnbịu nàocó tiềncủa để chămbón việc gầydựng vănhoá. Giốngnhư nhà ai đó quánghèo, conkiến đầynhà, lomiếngăn đủ cho chúng là chuyện đầutắtmặttối chứnóichi đến chuyện gởi chúng đếntrường.

6) Ởđây ông hiểulầm tôi rồi, tôi không cổvỏ cách cảitổ nầy -- tôi chỉ đưara những thídụ giảtưởng trên để bácbỏ luậnđiệu xuyêntạc mộtchiều của mộtsố nhàngữhọc phươngTây cứkhưkhư chorằng tiếngViệt là mộtngônngữ đơnlập (isolée hay isolated). Những thídụ như hoạs, vănz, wtình, flý, giáox... là để nhấnmạnhđến một hìnhthức ngữtố haylà vịngữ giốngnhư trong tiếngAnh của những chữ painter, novelist, unintentional, unreasonable, professor.... Chỉvì mình viếtrờira thành từngchữmột chonên họ nhìn rồi kếtluận vậy. Nếu côngước sĩ thành -s hay w- thành vô... thì nó cũng giốngnhư những vĩngữ un-, -ist, -er, -or... vậy.

Ởđây khôngphải là bắtchước cáchviết tiếngAnh hay tiếngTây gì cả mà chỉlà sưphântích để trìnhbày và minhhoạc và để dễdàng hơn trongviệc rútra một kếtluận hay một phảnđề với những địnhkiến cósẵn khôngmáy khoahọc về tiếngViệt.

Ðứngtrên lăngkính tiếnhoá lịchsử, sựviệc Latinhhoá tiếngViệt là một cơhôi lịchsử -- thựcsự Trungquốc và Nhậtbản cũng có thời muốn Latinhhoá ngônngữ của họ mà khôngđược đấychứ, thưa ông!

7) Thựcsự vào thờiđại này đánglẽ ngườimình trongnước chỉ nên xài bànđánhchữ không đấychứ -- như dân Tâyphương vậy -- ở xứngười mấyai viết lòngthòng mà còn sửdụng bút? Lại đỗlỗi chỉtại xứmình nghèo! Ðánhbằng bànchữ ông có cảmthấy không khóchịu như viếttay phảikhông?

Haylà minh nên cảicách triệtđể hơn bằngcách không bỏdấu? Lâunay nhiều người viết điệnthư email khôngbỏdấu mà có bị kiệnrató vì tội hiểulầm đâunhỉ? Văntự chẳngqua là quiước và côngước!

8) Tôi nghĩ trong giaiđoạn nầy mình khôngnên làm nhiều chuyện mộtlúc. Hoặclà chuyện mang HánNôm ra dạy ởtrường như một mônhọc để hiểubiết về vănhoá dântộc hoặc cảicách chữviết để hiệnđạihoá ngànhtinhọc dùnglàm côngcụ, đònbẩy để pháttriển nềnkinhtế kỹthuật nướcnhà trước rồi đibước kếtiếp chẳnghạn. Nếu làmđược cảhai chuyện mộtlúc thìhaybiếtmấy!

Bài 2

 9) Cảmơn ông đã chiếucố đến viếngthăm vny2k.com. Khônghề đểlòng đểbụng gì hết, được ngườita đểý đọc bàiviết của mình và được phêphán là đủ vui bởilẽ tiếngnói của mình có ngườinghe. Thựcsự giữa tôi và ông tôi cảmthấy có nhiều sựtươngđồng hơnlà dịbiệt. NgườiViệt mình có câu "trướclạsauquen", ngườiHoa có câu diễngiải nanánhư "có đánhnhau mới thành bạn." Tôi với ông dườngnhư chưa đánh trậnnào!

10) Ông đúng ởchỗlà tôi học chữHán rấtsớm, nhưng tôi khôngnghĩ là tôi biết Hán nhiều hơn Việt. Về mặt sửdụng ngônngữ tôi có bài đăngbáo năm lên 15, 16 (thơ truyện trên các báo Văn, Vấnđề, Chínhvăn, Khởihành, Tiềntuyến... được giớithiệu trongsố Những Nhàvăn Trẻ trên tờ Văn năm 1972)... Tôi biết cáiyếu của tôi là thuyếtphục người khác -- ngaycả những ngườibạnthân tôi mà tôi cũng không thuyếtphụcnổi chứnóichi ngườingoài. Cólẽ vì sứchọc còn thôthiển chưađếnnơiđếnchốn chonên nói không mạchlạc rànhrẽ, trôichảy... thườngthường thì ngườita giỏigiang về lãnhvực nào thì ngướiđó rấtla hùngbiện về vấnđề đó. Tôi cólẽ thuộcloạidỡdỡ ươngương, từnhỏ đếnlớn làm chuyệngì hỏng chuyệnnấy.

Còn vềviệc phủđịnh kháchquan về tiếngHán -- dườngnhư tôi chưahề chê tiếngHán baogiờ cả -- tôi còn mong phổbiến được ýtưởng khuyếnkhích ngườikhác học tiếngHán dù chỉ đủ để đọc Tamquốcchí, Hồnglâumộng, hay truyện Kim Dung thôi thì cũng đã đángcông học tiếngHán! Thựcsự tiếngHán của tôi rấtxoàng, nếu trên 25 năm dùmài kinhsử tiếngHán, theo kiểu Nguyễn Hiến Lê học chơichơi mà thôi, thì kẻkhác vời cái công tươngđương mà tôi bỏra để học thì họ đã trởthành họcgiả Hánngữ rồi. Nhưng cóđiều tôi dám khẳngđịnh rằng: tôi "cảm" được tiếngHán và tôi nhờđó màđã hiểubiết về tiếngViệt nhiềuhơn. Tôi đã tìmra khoảng trên 20 ngàn từ "thuầnViệt" đềucó mốiquanhệ mấtthiết với tiếngHán cổkim. Hyvọng ngàynàođó tôi sẽ hoànthành được côngtrình nghiêncứu đang bỏ dỡdang của mình -- và liênmạng toàncầu đã cho tôi cơhội có mộtkhônghai nầy. 

TiếngHán khôngthể thiếuđược trong lãnhvực nghiêncứu ngônngữ iệt và nguồngốc tiếngViệt. Chỉ đọc sáchTây sách Nga về ngôngữhọc mà bànchuyện ngữhệ tiếngViệt là chuyệnnựccười, xemtrời khôngbằng cáivung! TiếngHán là cái chìakhoá mởcửa cho sựthôngsuốt về mọi ngành nghiêncứu Việtngữ. Ngượclại, người nghiêncứu cổHánngữ đã phải nghiêncứu Việtngữ để tìmhiểu âmcổ tiếngHán, thídụ tạisao cái nhườita gọilà "xe" bâygiờ ngàyxưa lại đọc naná như "cộ", "La" vừalà "lưới" mà vừalạilà "chài", "công" vừalà "ông" vưàlà "trống", "đéo" là "piao", "Ping(li)" là "sính(lễ)", "án" là "bàn", "mùouqì" là :múarối", "hànmáo" là "mồhôi", "niáo" là "đái", "bua" là "vua", "bụt" là "phật", "trọng" và "thính" ("đaang" và "khe" trong tiếngHảinam) là "nặng" là "nghe".....

11) Tôi cũng có ýnghĩ nhưvậy nhưng tôi khác với ông là tôi chấpnhận Quốcngữ là hìnhthức kýâm tiếngViệt tốtnhất mà HánNôn khôngthể thaythế được. HánNôm chỉ là linhhồn vănhoá Việtnam chứ khôngthểnào diệnmạo của một Việtnam hiệnđại.

Nếuđể tựphát không ngưiờiđưadắt, tươnglai của chữViệt sẽ khôngphải ca'ch vie^'t nâ`y mà sẽlà tiengViet khongdau thongqua suphobiencu dienthu email!

Tôi khôngbiết là mình đã phạmvào những điều quốctuý nào như ông đã nói, nếu cóthể mong ông chỉgiáo cho.

Kínhchào ông.

Táibút: Rấtmong được ông chiếucố viết bài cho vny2k.com, tôi rất cảmkích sưthẳngthắng và kínhtrọng sựhiểubiết của ông qua nhiều bàiviết trên Việthọc.


x X x


BÌNHLUẬN

"Cảicách tiếngViệt" 

Author: Đặc Cán Mai 
(---.3web.net)
Date:   
Sunday 03-03-02 06:55 (PST)



Tôi Xin được mạn phép góp ý với tư cách của một người yêu tiếng Việt có học vấn tầm thường. Tôi không có khả năng chuyên môn để thảo luận về việc "cải cách tiếng Việt", nhưng với tư cách một người nói tiếng Việt từ nhỏ đến nay tôi xin đem tâm tình mà được góp ý như sau.

Tôi không ủng hộ và mong sẽ không có ai ủng hộ việc viếtdínhchữquốcngữliềnvớinhauthànhmột- chùmnhưthếnày .. Tôi đã cố gắng đọc bài viết của ông PCDong nhiều lần nhưng đã phải bỏ nửa chừng vì không có can đảm đọc tiếp.. mắt tôi bị nhức nhói khi đọc những bài viết này ! Mấy tháng trước khi dùng google để tìm kiếm thơ ca VN, tôi vô tình đã đến trang nhà vny2k và đã download Chinh Phụ Ngâm. Nhưng khi đọc vài đoạn, tôi đã rất thất vọng và đã delete bản đó đi ..

Ngày trước, trước năm 1975, tôi có được đọc một số sách vở ở Sài Gòn có bàn về những việc cải cách như viết chữ dính liền nhau, viết chữ i thế cho chữ y, v.v., nhưng những việc này chẳng tới đâu có lẽ vì không được phổ cập trong đại chúng (!?) Ngày nay ông PCDong chỉ nêu lại vấn đề cũ trong một khung cảnh mới . Ông cho rằng vì tiện lợi trong việc làm tự điển sử dụng điện toán, v.v.. 

Điều này làm tôi cảm thấy lời nói của nhiều người là đúng "người Việt mình thiếu óc sáng tạo, chỉ giỏi việc bắt chước" (xin ông PCDong đừng hiểu là tôi ám chỉ ông -- tôi không nói đến riêng ai, tôi tất cả mọi người trong đó có cả tôi). Tôi tự hỏi là tại sao không may áo vừa thân người, mà cứ lại ép thân người cho vừa cái áo ? Tại sao lại phải cứ theo cái máy computer của người chế tạo ra mà ép tiếng Việt mình thế ? (nghĩ mà thương cho cái thân phận VN mình.. Bị ép đủ chỗ, từ đất đai, con người, đến cả tiếng nói, chữ viết nữa!).

Những khó khăn kỹ thuật hôm nay không phải là vĩnh viễn kia mà ? Mới ngày nào đánh máy chữ Việt trên máy điện toán còn là điều khó khăn, nhưng nay đã dễ dàng hơn nhiều . Sự việc tương tự cũng sẽ đến với database trong một ngày gần đây (?).. Vấn đề là chúng ta có "tưởng tượng" ra điều đó hay không mà thôi ..
Ông tôi ngày trước có bảo với môn sinh của ông rằng chữ Hán mà ông dạy họ thật chả ích gì cho họ vì "ông nghè, ông phán cũng nằm co" (TX ?). 

Ông tôi nói chữ Quốc ngữ thật tiện lợi, nó cải cách sự học, dễ học, dễ phổ biến.. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy ông tôi chỉ đúng có một nửa .. Vì ông tôi sẽ không ngờ rằng sau hơn vài chục năm cải cách, chẳng mấy ai đọc nổi cái gia phả của chính nhà họ ! Cứ mỗi lần "cải cách" là mỗi lần tang thương trong lịch sử Việt Nam. Vì vậy tôi đâm ra ngờ và sợ sự cải cách.

Kính,


Trò Dốt Lê Hạ Mục



Phảnbiệncủa dchph

Kínhgởi Ông Lê Hạ Mục:

Xin cảmơn ông đã đemhết tâmtình gópý về vấnđề "Cảicách tiếngViệt."

Tuynhiên, mới vôđầu là ông đã hiểusailạc ýtôi. Rất rõràng là tôi không đềnghị cáchviết nhưthếnày: "viếtdínhchữquốcngữliền- vớinhauthànhmộtchùmnhưthếnày .. " như ông đã nêura.

Cóthể vì ông khôngthích lốiviết nầy và đã từngbiết là trong quákhứ đã cóngười hôhào cảicách lốiviết dínhliền nhưvầy, chonên ông đã cóthànhkiến ngay từđầu. Kếtquả là ông cólẽ đã chỉ đọc phớtqua bàiviết về vấnđề cảicách chữViệt của tôi. Vì rõràng câuviết trên của ông đã làm sailạc ý tôi mộtngàndặm.

Ðólà cách viết của chữThái, tranggiangđạihải, và tôi khônghiểu cấutrúc chữThái nên khôngthể bìnhluậnđược dù tôi biếtrằng ítnhất là trên mặttừvựng (và hìnhnhư cả thanhdiệu và âmvận) tiếngThái có những tươngđồng với tiếngViệt. Thídụ "kaowniew" là "gạonếp". Theosự hiểubiết của tôi thì chữThái trướcđây cũng viết rờirạcra như chữviết tiếngViệt của chúngta ngàynay. Họ đã cảicách và họ đã thànhcông. Khi dấyđộng sựcảicách ngườiThái dĩnhiên là cólýdo của họ, và lýdo đó khôngngoài sự truytìm sựtiếnbộ trên các lãnhvực. Kếtquả là nền kinhtế và kỹthuật của nước nầy đã vượt Việtnam ít nhất là 20 năm. Ðólà chưakể đến những nước như Ðạihàn, Trungquốc, Nhậtbản, Tângiaba... họ đềuđã trãiqua quátrình cảicách văntự để hiệnđạihoá khoahọc kỹthuật thôngtin của họ. Ngàynay, bấtcứ người Trungquốc không biết tiếngAnhtrong nướchọ đều cóthể lênmạng và ở Trungquốc có mạngthôngdịch miễnphí sẽ thôngdịch tạichỗ vả tứckhắc để ngườidân của họ cóthể truycập thôngtin trangmạng tiếngAnh. Chắc khôngnói thì ai cũng biết là Trungquốc là một quốcgia cộngsản rất engại những luồng thôngtin tưdo nhưng họ cũng nhậnthức rằng lập thưviện liênmạng rẽtiền hơn xâycất nhiều thưviện sáchvở cổđiển!

NgườiViệt trongnướcchúngta ngàynay vẫncòn nângniu những sáchvở kỹthuật cũkỹ nướcngoài, chủyếu là bằng Anhngữ và Phápngữ , họ nângniu chúng như đồcổ, bởilẽ nhiềungười chưacó phươngtiện truycập trangmạng trong thưviện khổnglồ toàncầu. Bên Mỹ cóai giữ tạpchí PC Magazine của nămngoái đâu nhưng những tạpchí tinhọc cũa những năm đầu thậpniên 90 của thếkỷ trước vẫncòn bàybán nhannhãn ở những hiệusách cũ tại Việtnam! Ðólà nói về những người có vốnliếng về ngoạingữ, chứcòn đạiđasố "thườngdân" thì camchịu dốt.

Tôi hiểu là bấtcứ ai quantâm về vấnđề nầy đều yêu tiếngViệt hết. Những người này hầuhết đều nói và viết tiếngViệt từ thuởnhỏ. Rấttiếtlà tôi không thuyếtphụcđược "một người yêu tiếng Việt có học vấn tầm thường" như ông gianhập vào hàngngũ "cảicách tiếngViệt." Nhưng đồngthời tôi cũng nhậnthức rarằng đasố những ngườiủnghộ "phongtrào" (hyvọng tươnglai sẽ nhưvậy) đềulà những ngườicóhọcvấn ýthức rõ vấnđề cầnthiết phải cảicách cáchviết tiếngViệt hiệnnay. 

Chúngtôi hyvọng là vào năm 2020 cáchviết nầy sẽ chínhthức thaythế cáchviết hiệnnay. Dođó chúngtôi tạmgọi cáchviết mới là Việtngữ2020. 

Sỡdĩ tôiphải nhấnmạnhđến tínhcách "ýthức" nầy là vì "ýthức sẽ làm thayđổi sựviệc", "ngườibiết chỉ cho ngườikhôngbiết", "vậnđộng nào cũng phải có ngườivậnđộng..." Nếukhông tấtcả chúngta với trìnhtrạng ùlì, sợ cảicách, sợ thayđổi, rồi cuốicùng haimươi năm sau, nhìnlại, mọisự cũng còn ynhưcũ. Ynhưcũa bởilẽ cảicách tiếngViệt là một hìnhthức hiệnđạihoá tiếngViệt để phùhợp với tínhkháchquan của nó, và nhưvậy sẽ hợp tínhkhoahọc để mangra ápdụng vào côngnghệ thôngtin, trongđó có liênmạng toàncầu, là một thưviện khổnglồ miễnphí, mà mộtngàynàođó aiai trongnước cũng cóthể truycập thôngtin để bắtkịp đàtiếnbộ của thếgiới. Tạisao lạithế? Xinthưa, viễntượng thôngdịch bằngmáy vitính đang đến rấtgần với tiếngViệt chúngta, mà trongnước khôngphải ai cũng cóthể đọc thôngthạo tiếngAnh là ngônngữ kỹthuật và liênmạng mặcnhiên của thếgiới ngàynay. Muốn dùng máyvitính để dịch đúng, trướchết phải có nhậnđịnh đứngđắn về tínhcách đâmtiết của tiếngViệt. 

Ông nóiđúng trước 75 đãcó nhiều người đềxướng những cảicách về tiếngViệt. Nhưng vào thờiđó nướcViệt chúngta còn bậntâm về vấnđề chiếntranh, chưacó kỹthuật điệntoán và "liênmạng toàncầu" thì những bàiviết của họ đăng trên những tạpchí "bachọc" có sốlượng pháthành hạnchế (Thídụ như "Báchkhoa" pháthành trên toàn miềnNam chưatới 3000 số trong mộtnửa nước có dânsố trên 25 triệu dân vào thờibấygiờ.) Giờđây, liênmạng tòncầu đã cho chúngta một cơhộibằngvàng để nốitiếp ýtưởng và côngtrình của họ, vì cáiđúng là cáichânlý, cáichânlý cuốicùng baogiờ cũng thắng. Tôi tinchắc rằng chúngta sẽ thànhcông.

Ông có nhắc đến những cảicách "sailầm" của Quốcngữ trong quákhứ, nhưng Quốcngữ trong bướcpháttriển đã thíchhợp vớisự tiếntriển của thờiđại nên chúngta ngàynay được thừahưởng những thànhcông của côngtrình cảicách đó. Ta khôngbiết tiếngHán vì ta khôngchịu học và nềngiáodục của nướcnhà vì lýdo nàođó (thídụ như chiếntranh, vấnđề chínhnhtrị tránh sựảnhhưởng của nướcTrungquốc khổnglồ phươngBắc) đã không bảovệ đứngđấn nền họcthuật HánNôm. 

Biếtthế, chonên cánhân tôi từ nhỏ khi bắtdầu biết làmvăn, tôi cảmthấy sựthiếusót này chonên đã bỏcôngra học chữHán, và tôi đã đọcđược giaphả viết bằng chữHán của dònghọ tôi kéodài trên 2500 năm! NgườiViệt chúngta thường tựhào với nềnvănhiến rựcrỡ 4000 năm nhưng hỏi cho kỹ đasố chỉ biếttới những điềutrên sáchvở viết bằng Quốcngữ xuấthiện. "Giaphả bốnngàn năm" của nướcViệt đã bị đứtlìa vì chẳng mấyai còn đọc được chữHán chữNôm. Gốctích vănhóa của chính bảnthân mình mà mình không tự họchỏi nghiêncứu thì khi tựhào cề bốnngànnăm, lúc bị "ngườita" hỏitới, "bạntính làmsao màra bốnngàn năm? Có bằngchứng gìkhông?" Thì lúcđó ta sẽ chẳngbiết trảlờisao! Ðâylà vấnđề mà ông Tran đã đềcập đến nhiều với những lời tâmhuyết mà ông Tran đã nêura trong những bàiviết của ông. 

Tôi cũng muốn ủnghộ ýkiến của riêng ông về vấnnđề nầy nên đã dàidòng nhưvậy, cốt là để nhấnmạnh tính thiếtyếu về những mâuthuẩn nộitại trong tiếngViệt (HánNôm tốt hay Quốcngữ tốt? cảicách tốt hay không cảicách tốt? Quốcngữ ngàynay là thựcthể khôngthểphủnhậnđược, nhưng thiếukhoahọc, cócần cảicách không, làmvậy có đúngkhông? v.v...) Ta không giảiquyết được những mâuthuẩn nấy là chúngta mặcnhiên chấpnhận những khuyếtđiểm nẩysinh từđó màra. Sựkiện nầy chắcchắn sẽ tácđộng mạnh vào việcvitínhhoá nềnkỹthuật thôngtin tinhọc hiệnđại mà kếtquả là sẽ làmtrìtrệ sựpháttriển của đấtnướcta trên tấtcả mọimặt. Ngàynay, nướcnào không đuổitheokịp đàtiếnbộ của kỹthuậttinhọc là nướcđó sẽ bị bỏsau!

Ông viết: "Điều này làm tôi cảm thấy lời nói của nhiều người là đúng "'người Việt mình thiếu óc sáng tạo, chỉ giỏi việc bắt chước.'" Chodù ông có nói ông không ámchỉ tôi nhưng tôi cảmthấy cần nói vàidòng về câunói mà ông đã nêura. Ýtưởng cảicách tiếngViệt là một ýtưởng sángtạo đó chứ! Nếu nước ngườita tiếnbộ, tiếngnói ngườita hay, nếu bắtchước để mình được tiếnbộ theo thì cũng nênlắm chứ! Tuynhiên, tôi nghĩ ởđây ông muốn đềcậpvề lãnhvực kỹthuật tinhọc.

Còn trong lãnhvực cảicách chữviết nếucó bắtchước thì bắtchước cái ýtưởng, cáitiềnđề cảicách văntự sẽ dẫnđến những hệquả tíchcực trong các lãnhvực khác. Còn thựcthể kháchquan của tínhcách tiếngViệt ngàynay là mộtngônngữ đaâmtiết, viết rờirạc là khôngkhoahọc, và sựrờirạc làmtrìtrệ óc pháttriển của conem chúngta. Lýdo là đầuóc bắtnhận những kýhiệu ngônngữ bằng dạngchữ chứ khôngphảilà bằngcách đánhvần từng chữmột. TiếngÐức hoặc tiếngHán là những thídụ cụthể. Ai có biết tiếngÐức thì sẽ thấy là từvựng của họ viếtra rất dài, vì họ quanniệm đólà một kháiniệm, một khốiýtưởng bấtkhảphân, khi ngườiđọc bắtnhận dạngchữ đó, (tiếngHán hình khối cũng chora tácdụng tươngtự) họ sẽ nhậnra ngay mà khôngphải nhậndạng từng âmtiết hay từng vần một. Thídụ: Recherchemöglichkeiten (nghiêncứukhảnăng), Datenbanken (ngânhàngdữkiện), Betriebswirtschaftliche (kinhdoanh)... Trong cáchviết hiệntại nếu ta viết: "nghiên cứu khả năng, ngân hàng dữ kiện, kinh doanh"... cóphải là tại trướchết phải đọc từngchữmột trướckhi ta kếtnối những chữrời nấy laivớinhau rồi mới nhậndạng đước ýnghĩa-kháiniệm của những nhómtừ nầy không?  Suynghĩ xahơn, đầuóc contrẻ vìthế sẽ làmviệc nhiềuhơn nhưng chậmhơn để thunhận những kháiniệm trong ngônngữ. Sosánh cáchhọc của trẻcon Mỹ và trẻcon Việtnam ta cũng cóthể cảmnhận ra được điềunầy. Cóphải vìvậy mà nướcÐức họ tiếnnhanh tiếnmạnh? Ðạihàn? Nhậtbản? Trungquốc? Chỉ cần mộtchút "common sense" và tưduy chútí tvề vấnđề nầy, ai cũng cóthể hiểu ra cáilẽ tại sai contrẻ họchỏi và thunhận thôngtin chậmhơn những đứatrẻ ở những xứ như Mỹ, Ðức, Nhật, Tàu, Ðàihàn v.v..... Ôi cái vânvân saodmà dài thế!

(Về vấnđề nầy xin mờiđọc Ngônngữ và Trítuệ của Nguyễn Cường )

Hyvọng ông hiểu những điều tôi đang cốgắng nóira ởđây. Nếu ông khônghiểu thì cólẽ là cáchtrìnhbày kémcõi của tôi chứ khôngphải là vấnđề không hiệnhữu chỉcó trong trí tưởngtuợng của tôi. 

Nhântiện trảlời thư ông tôi muốn nêulên những vấnđề kểtrên để nhấnmạnh tínhcấpthiết phải hiệnđạihoá tiếngViệt của chúngta ngàynay, chứ khôngthể "Những khó khăn kỹ thuật hôm nay không phải là vĩnh viễn kia mà ? Mới ngày nào đánh máy chữ Việt trên máy điện toán còn là điều khó khăn, nhưng nay đã dễ dàng hơn nhiều . Sự việc tương tự cũng sẽ đến với database trong một ngày gần đây (?).." như ông nói, cứ ngồi chờ nhờ thiênhạ "cảicách" giùm mình (thídụ trườnghợp Unicode).

Tuynhiên lờinói của ông cũng đúng ởchỗ "Vấn đề là chúng ta có 'tưởng tượng' ra điều đó hay không mà thôi .."  Phải có người tưởngtượng và phải có người hànhđộng, nếukhông, cứđể chuyệnsẽtới nó sẽtới, nhưng erằng tới lúcđó ngoảnhnhìnlại ta đã bỏmất nhiều cơhội để "cảicách."

Hyvọng bàiviết nầy với cáchviết Việtngữ2020 nầy sẽ không làmcho ông chóngmặt, vì tôi có niềmtin của tôi, cũng như ông córiêng niềmtin của ông vậy. Cuốicùng ýtưởng ai sẽ thắng, chỉcó thờigian mới trảlời đuợc câuhỏi nầy!

Kínhchào Ông.

PCDong

----------------------------------------------------

Author: Đặc Cán Mai 
(---.3web.net)

Date:   
Sunday 03-03-02 17:11 (PST)

Thưa ông PCDong,


Tôi xin cảm ơn ông đã có công trả lời với một bài viết dài như vậy .. Tôi thật sự chóng mặt vì sự bác học của ông. Tôi nghĩ là tôi không hề hiểu lầm chủ trương của ông, cũng như câu viết dính liền của tôi ở bài đăng trước chỉ là một cách nhấn mạnh vào vấn đề (không hề có ý xuyên tạc cách viết của ông). 

Tôi xin nói rõ quan điểm của tôi: Không nên cải cách hình thức của chữ viết nữa, chỉ nên tìm cải tiến các phương tiện (máy móc, nhu liệu, lưu trử, v.v.. ). Tôi biết nếu tôi viết ra càng nhiều thì càng có nhiều chỗ vụng về, và như vậy càng sẽ gây thêm nhiều chỗ để ông nghi vấn. Và vấn đề sẽ không khỏi đi xa điểm tôi muốn nói ...

Tôi nghĩ chuyện cải cách tiếng Việt là chuyện chung cho tất cả mọi người Việt, vì thế tôi đã không ngần ngại nêu ra quan điểm và mong muốn của tôi -- nếu tôi đã có điều thất thố cùng ông, tôi xin được ông thứ lỗi !


Trò Dốt Lê Hạ Mục


Author: levietdieu 
(xxx..k12.ca.us)
Date:   Monday 03-04-02 11:10 (PST)

Toi noico hoi baphai motchut la` cahai ong pcdong va`ong Lehamuc deuco caily cuacacong, Tren thucte neukhong caicach th`ikhong tienbo, nhung caicach malam cho nguoiduoc thuhuong sucaicach do' kho6ngchapnhan cungla motcach caicachchau dungmuc.

Quy vi co doc duoc dieu toi viet khong. Toi viet nhu the khong phai vi` toi chap nhan su cai cach nhung vi` toi kong biet xa`i unicode cho nen toi viet nhu the do'. Neu dioc duoc va dedang thi viec denghi cuaong pcdong co the chapnhan duoc trong mot phamvi naodo.
Chan tha`nh chuc cac quy vi tranh luan nhieu hon de sang to van de

Kinh
levietdieu


 

Cảicách tiếngViệt làmgiàu tưduy trừutượng

Author: doahung 
(xxx.pacbell.net)
Date:   Wednesday 03-06-02 00:33 (PST)

Tôi thấy lý do chính cho việc cải cách tiếngviệt là tạo khả năng làm giàu cho tiếngviệt và giúp cho ta có thể suy nghĩ có tính "khái niệm" hơn. Lý do về "software" chỉ là phụ . Bởi ngôn ngữ có phức tạp hay lung tung đến mấy thì chỉ làm khó cho người viết thảo chương thôi , chứ cuối cùng thì vẫn giải quyết được.

Khi tôi viết những hàngchữ viếtdính sauđây tôi cảmthấy rất khókhăn vì không thể viết liềnmộtmạch mà phải suynghĩ chữ nào nên dính chữ nào không!
Điều này không chứngtỏ là viếtdính không thuậnlợi mà chỉ chứngminh rằng tôi không quen suynghĩ 'dính'!

Tôi nghĩ rằng ngônngữ và tưtưởng có ảnhhưởng qualại và mật thiết vớinhau .
Viết rờirạc tạo cho óc của tôi thóiquen suynghĩ tách rời từng âmtiết. "Kháiniệm" do đó bị "vỡ" ra.

Tiếngviệt là tiếng mẹđẻ , thếmà nếu tôi viết cũng những dòngchữ trên bằng tiếngđức thì tôi hoàntoàn không gặp khókhăn. Phải chăng khi tôi suynghĩ bằng tiếngđức, đọc tiếngđức thì "kháiniệm" không bị "chặt vỡ" ra như trườnghợp tiếngviệt ?

Nhiều ngưòi cho rằng tiếngviệt rất phongphú về tìnhcảm, về những cái cụthể nhưng lại nghèo về những gì trừutượng. Phải chăng cảicách ngônngữ, vănphạm, hìnhthứcviết có thể làmgiàu cho tiếngviệt , làm tiếngviệt thêm khảnăng trừutượnghóạ

Xin lấy vídụ từ ngay dòngchữ trên.
Mới đầu tôi định viết "làm giàu" nhƯ một phảnứng tựnhiên. Phải qua suynghĩ tôi mới viếtdính. Làmgiàu là một kháiniệm. Trong trường hợp viết câu "Ông XX làm giàu" thì phải viết rời .

Ông xx làm giàu : chỉ sự làm giàu một cách cụ thể
làmgiàu tiếngviệt là kháiniệm trừu tượng.

Khi viếtdính các từ ngônngữ , phongphú , cụthể , trừutượng thì tôi hoàntoàn không có vấnđề gì cả . Để ý rằng các từ trên là gốc Hán. Vì là tiếng nướcngoài nên từng chữ đơnlẻ đố với tôi hoàntòan vônghĩa . Nó chỉ cónghĩa khi được kếthợp lại thành khối trong óc tôi!

Điều này giảithích lýdo tạisao khi cần kháiniệm trừutượng hơn thì ta phải nhảy sang dùng từ gốchán ! Chẳng qua là tại ta không hiểu rõ từng chữ đơn lẻ nên hiểu ngay đó là kháiniệm.

Khi ta dùng từ quycủ thì ta không cần hiểu cụthể quy là cái compa để vẽ vòngtròn, và củ là cái êke .

Ngừời ta hay phànnàn rằng ngườiviệt thiếu khảnăng suynghĩ trừutượng. Điều này không phải không có nguyêndo . Khó có thể nói là ta có một nền triếthọc mạnh được .

Tuy ngônngữ không phải quyếtdiịnh hếtthảy , nhưng biếtđâu sựcảicách sẽ manglại thuậnlợi hơn cho sự pháttriển của tưduy của chúngtạ

Để chấmdứt xin dùngngay dòngchữ trên:
tôi dùng tưduy (Hán) mà không dùng 'sự suy nghĩ' nômna hơn .

Viết dính Sựsuynghĩ với "sự" như một tiếpđầungữ cho suynghĩ ta có thể không cầnthiết phải dùng chữhán cho kháiniệm này . Nếu ai cũng côngnhận chữ 'sự' là tiếp đầu ngữ , dùng mãi trở thành quenthuộc thì ta sẽ làm nảy sinh ra nhiều chữ mới . Tương tự như thế các chữ "tính" , "cách" ..

Ngừời Đức có thể tạo chữ mới một cách dễdàng, thídụ như:
wirt là chủ (chủ tiệm chẳng hạn) viết dính
-> wirschaft (kinh tế)
-> wirschaftlich (tĩnh từ : cóti'nhkinhtế )
-> wirschaftlichkeit (danhtừ tínhkinhtế )

betrieb : (xínghiệp)
->Betriebwirschaft (kinhtế (quảntrị) xínghiệp)
->Betriebwirschaftlich (->tĩnhtừ) ... vân vân


Author: Tran 
(---.sbphrd.com)
Date:   Thursday 03-07-02 15:37 (PST)

Kính thưa quý vị,

Không ngờ đề tài này lại nóng bỏng như nhiệt liệu, có lẽ là nổi ấm ức của bao lớp học giả chuyên và không chuyên. Tôi có nhiều chuyện muốn viết lắm, nhưng coi như ít nhiều đã bắt trúng tần số . Xin hãy đưa ra ý kiến rồi thử đề xướng một phương pháp. Dù mình không có quyền chi để thay đổi nhưng liệu vài ba năm nữa có người đề xướng, không chừng sẽ bớt được chuyện tham khảo và cãi nhau như mọi chuyện ban đầu.


x X x 


BÌNHLUẬN

"Sửađổi Cáchviết TiếngViệt"  

Author: Phạm 
(---.proxy.aol.com)
Date:   Friday 03-08-02 10:15 (PST)

Kính thưa quý vị,

Tôi thuộc lớp người "tuổi quá 70, mắt mờ tai điếc", tuy không được học "tiếng Việt" một cách nghiêm túc, lúc nhỏ phải học chữ Nho, chữ Pháp ở trường. Trong quá trình học hỏi, gặp biết bao gian khổ. Tự học chữ Quốc ngữ không mấy khó khăn bởi nói và nghe "tiếng Việt" từ thuở bập bẹ "ba ba má má" tới ngày nay. Cha mẹ ngoài việc lo chén cơm, manh áo còn khuyên dạy phải "nói tiếng Việt, đọc và viết chữ Việt" dù phải học tiếng Tây tiếng Tàu . Nghĩ lại cơm cha áo mẹ công thầy! Công cha, nghĩa mẹ là vậy, sao mà quên được. Vì không có căn bản học "tiếng Việt" như liệt quý vị Tran, Đoan Hùng, PCDong, v.v., nên tôi có rất ít thầy . Trong số hiếm hoi đó có Trương Vĩnh Ký, mà Trần tiên sinh gọi nôm na là Đại Việt Gian. Trần tiên sinh có vẻ là một kẽ cả, học thức huyên thâm, đáng kính mến lắm thay, có thể là thầy của tôi đó. Thầy là cha mẹ, dạy sao nghe vậy . Thầy Trần và Đại Việt Gian đều là thầy đáng quý cả. Học chữ Hán chữ Nôm, nhưng có nhiều chữ Nôm đọc không được, nhờ thầy Đại Việt Gian phiên ra QN mới mở trí ngu được phần nào . Nếu mấy lời tâm huyết có điều thất kính xin thầy Trần tha lỗị Vạn tạ! Vạn tạ!

Hình như tôi viết sai đề, mãi mê "cái tôi đáng ghét" mà bị lạc hướng. "Cải cách tiếng Việt" là điều đáng làm, dù không ai đề xướng "tiếng Việt" cũng tự canh cải . Kể từ thuở Đại Việt Gian đến thầy Trần bây giờ, "tiếng Việt" thay hình đổi dạng trở nên trong sáng hơn. Lành thay! Các học giả như Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Đình-Hoà v.v. đã khởi xướng nhiều canh cải trong "tiếng Việt". Mới đây thầy Trần và ngài PCDong đề xướng cải cách "tiếng Việt" lại dùng Diễn Đàn chữ Nôm. Bài của ngài PCDong tràng giang đại hải, hình như viết bằng "tiếng Việt" nhưng có khá nhiều chỗ tôi không dám đọc, bởi có nhiều chữ lạ lùng hay quá mới đối với tôi . Nghĩ lại cho kỹ là thân già nầy không theo kịp giòng nước đang trôi mà buồn. Mắt mờ, làm sao đọc được lời vàng ngọc của Ngài PCDong. Tiếc thay! Hình như một trong những ý nghĩ cao đẹp là canh cải tiếng Việt cho thích nghi với thời đại điện tử điện toán. Hơn hai thập niên lăn lộn trong nghành điện toán, hưu trí non bảy năm, nay đã bị các vị như PCDong, Đoan Hùng, thầy Trần bỏ đi rất xa . Nhớ ngày nào phải học ngôn ngữ Algol, lần lữa đến C++, Java ... Còn vài công việc chưa hoàn tất, nay biết được các bậc thông thái PCDong, Doan Hùng, và thầy Trần, mong được thấy các vị làm mấy việc này song song với việc xỏ xâu tiếng/chữ Việt. Chữ Anh (và các chữ Âu châu khác), chữ Nhựt, chữ Hán đều có OCR diễn dịch qua Scanners. Chữ Việt thì chưa thấy . Riêng tôi có phát hoạ với một số bạn bè giảng dạy tại các trường đại học tại Pháp, Đức, định hợp tác làm nhu liệu nêu trên cho chữ Việt. "Thiên các nhứt phương", ai cũng có việc riêng phải làm vì sinh kế. Thế nên "giấc mộng chưa thành". Chữ Việt xỏ xâu khó processed (xin lỗi tôi không biết tiếng Việt tương đương) hơn chữ Âu châu nhiều (bởi số dấu ít hơn trong chữ Việt), khó hơn chữ Hán, xét riêng từng đơn vị. Theo thiển ý, quý ngài PCDong, Đoan Hùng, thầy Trần nên bắt tay vào việc tạo tác Database(s) cho tiếng Việt, hỗ trợ OCR Việt bằng một số thảo chương với coding ước lương vài triệu dòng. Được vậy, tiếng Việt xỏ xâu do quý vị đề xướng và cổ động mới có cơ thành tựu . Nếu mãi tranh cãi xem ai thắng ai bại, xin quý vị về trang nhà của Ngài PCDong thì hợp lý hơn, để diễn đàn chữ Nôm được yên ổn, bàn luận học hỏi . Chỉ nói suông, cổ động ầm ạc xỏ xâu tiếng Việt ... tôi thấy "thì thần vị đáo". Cái hay của việc xỏ xâu chắc là có, nhưng hậu quả tai hại, đối với hàng "thất thập cổ lai hy" của chúng tôi chắc cũng có. Thử tưởng tượng một ngày nào đó, mong ngày đó không đến với tôi, các sách báo, văn từ đều dùng chữ Việt xỏ xâu theo như kiểu PCDong, thì chắc có người phải bỏ tiếng/chữ Việt. Buồn thay! Ngót bảy thập niên trân trọng nay phải bỏ đi thì còn đoạn trường nào hơn được. Hồi nhỏ mê đọc bộ sách tràng giang "À la recherche du temps perdu" của Marcel Proust, mỗi đoạn dài đẳng, có chỗ hơn mấy trang, nhưng không mõi mắt, vì chữ Pháp tuy đa âm nhưng không nhiều dấu như chữ đơn quý mến của chúng ta . Dầu vậy tới tập cuối "Le temps retrouvé",non 500 tang, mà phải đọc đi đọc lại nhiều lần, cả năm mới hoàn tất. Hình như có người đọc không nổi Chinh Phụ Ngâm theo lối PCDong, và vị này chắc không vào hàng cổ lai hy mà đã vậy sao ? Vị đó chắc đã đọc Chinh Phụ Ngâm trước rồi kia mà. Rất mong ngài PCDong, thầy Trần, v.v. lắng nghe tiêng kêu than mà trang bị công cuộc cải cách hầu phục vụ mọi người, hơn là dùng văn tài áp đảo "đối phương" để giành phần thắng! Mong lắm vậy thay! Xin cám ơn quý vị đọc đến dòng này, và cũng xin cám ơn Trạm trưởng Diễn Đàn Việt Học cho phép trình cảm nghĩ của một người già lạc vào nơi tân học.

Kính bút.
Phạm

 


Author: Tran 
(---.sbphrd.com)

Date:   Friday 03-08-02 12:16 (PST)

Ông Phạm,

Bài của ông dài quá! tôi sẽ đọc hết và trả lời, đang bận việc trong sở nên chỉ vắn tắt đôi điều về chuyện Trương Vĩnh Ký. Nếu phiên âm ra quốc ngữ thì phải khen chơ! Chỉ có điều là Trương Việt Gian có mấy thư mời thực dân Pháp vô chiếm nước ta Nam Kỳ với Bắc Kỳ mới là tội trọng. Trương Việt gian hợp tác với Tây rình mò chuyện triều đình nước Nam đem méc lại với Tây làm sĩ phu nhiều phen khốn đốn. Giá như không có họ Trương nhiệt liệt thuyết phục bọn Tây vào nước thì đợi nó chần chừ thêm khoảng đôi ba chục năm khi chủ nghĩa thực dân thoái trào thì nước ta không bị nô lệ nhục nhã như vậy. Phạm tiên sinh có học chữ Tây thì kiếm mấy bức thư của họ Trương mới căm hận cái thứ mọt nước này ngút trời ngút đất.

Còn chuyện chữ Nôm, Quốc ngữ, cần chi mà phải hạ mình cậy vô chữ quốc ngữ của họ Trương phiên âm mà biết ơn về chuyện nhận thức văn hóa. Nếu không có họ Trương bồi Tây táy máy thì biết đâu bây giờ ai ai cũng biết đọc Hán Nôm mà đọc cả chữ ab, Tây Mỹ như thường.

Lan man, phân tích cái chuyện biết ơn này thì tôi đây dù ghét cay ghét đắng Bok Hồ vì giả nhân giả nghĩa nhưng tôi cũng phải biết ơn Bok Hồ, vì sao? Vì thiệt ra Bok Hồ đã khuấy loạn về chính trị khiến dân tình điên đảo ngược xuôi, ông bà, cha mẹ tôi nhân tán loạn theo luồng đó mà đụng nhau rồi sinh ra tôi. Thế nên nói biết ơn người trước vì không có người trước thì mọi sự tồn tại cá nhân trên xã hội này nó không y nguyên như mình đang tồn tại. Thế nên, Phạm Tiên sinh nên tri được điều này mà bớt bồi hồi về sự biết ơn. Không có Bok Hồ thì sẽ không có rất nhiều người trên trái đất hoặc là bộ mắt xã hội sẽ khác mà không thể nào so sánh được sự tồn tại song song của từng cá thể. Biết ơn Trương Vĩnh Ký hay không cũng chỉ nằm trong khái niệm này. Nhưng nếu không có Trương thì mọi sự như viện Việt học này cũng khác. Ông và tôi cũng khác. Ông chỉ tùy vào cái ngọn gió quốc ngữ để biết ơn thì tuỳ, nhưng nếu ông nhìn xa và sâu hơn thì sự biết ơn này vô nghĩa vì không thức này, cũng thức khác cái đại thể như khí hậu, tứ thời sinh ra mưa ra gió - đó là luồng văn học Việt Nam bất kể bằng văn tự gì cũng vẫn tồn tại. Một người bình thường như ông và tôi nếu có vẫn phải đọc phải viết phải giao lưu. Nhân nói cái sở đoản của chữ Quốc Ngữ mà dân ta không còn liền mạch với văn hóa cũ thì rõ như ban ngày. Cái việc chuyển hệ chữ như họ Trương là việc dư thừa, không cần thiết như chúng ta đang nghĩ đây. Còn ai đó cứ ngợi khen thì tự do mỗi cá nhân, mà có thể sự lười biếng tư duy mà sinh ra vậy.

Hy vọng sẽ có giờ giải tỏa uẩn khúc của sự ơn nghĩa này. 


From: "vagrant" <xxx@hotmail.com

Date: Thu, 4 Jul 2002 19:58:10 +0200 

Kínhgửi anh.
Xin lỗi đã không phúcđáp bài viết của anh sớm, vì thúthật văn học không thuộc sởtrường của tôi nên tôi đành thấtlễ với anh vậy. 

Tuynhiên, tôi hoàntoàn tánđồng những lỗlực muốn cảicách tiếng việt của anh, vì thưa anh tôi đã đọc những bài anh viết và NgCường; có tính cách thuyếtphục và hợplý.

Trước kia, vì phải tra tưđiển nhiều đồngthời ghichú bằng tiếng việt dàidòng nên tôi viết tắt cho gọn, riết rồi trởthành thóiquen. Bởi vậy, 
học bất cứ thứ gì đều do thói quen cả. 

Tómlại, với lỗlực các anh đang làm tôi nghĩ nếu được quảngbá nhiều thì sẽ được hậu thuẫn nhiều. Tuynhiên, trong quátrình cảicách các anh sẽ phải đươngđâu với nhiều trởngại, phảnkháng. Tómlại tôi xin kếtthúc câu trăntrối của triếtgia Schopenhauer: " Nếu cứ chạy từ sáng cho đến tối tất phải khát".

Anh đã dịch xong quyển Sửký TưMã Quang chưa ? Nếu xong mong anh cho biết đặt mua ở đâu?

Kính 
Lean Kha 

--------------------------------------------

BÌNHLUẬN

Sửađổi Cáchviết TiếngViệt

(---.3web.net)
Date:   Saturday 03-09-02 09:08 (PST)

Author: Đặc Cán Mai 

Cụ Phạm,

Cụ đã đoán trúng, cháu chỉ là hàng hậu bối ở tuổi con cháu của cụ .. Sinh hoạt chuyên môn lại không ở trong các ngành ngôn ngữ và điện toán nên cháu đã rất thận trọng khi phát biểu ý kiến riêng của mình trong đề tài Cải Cách Tiếng Việt. Cháu đã biết đề nghị viết dính các chữ với nhau như kiểu chữ tây phương từ nhiều năm trước nhưng đã không lên tiếng vì tôn trọng và cũng vì, như đã nói, cháu không có chuyên môn về ngữ học, nên không dám lạm bàn. Tuy nhiên khi thấy vấn đề được nêu ra như thể là một chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kỹ thuật (viết "email" dễ hơn, dễ "search" hơn, v.v..), cháu đã không thể nào giữ im lặng được, đã phải lên tiếng .. Sự việc "cải cách" mà vì các vấn đề "kỹ thuật" như đã nêu, thật ra chẳng khác nào như một người vừa mua được quần áo may sẵn, nhưng vì kích thước của thân người to lớn hơn bộ quần áo, người đó phải nhịn ăn (diet) để cho thân người nhỏ lại với hy vọng cho vừa bộ áo quần vừa mua . Người đó lại còn hô hào sự "diet" đó cho kẻ khác, nói rằng "diet", ngoài vấn đề quần áo, còn giúp cho .. tốt phổi .

Cũng có người nên lên vấn đề trên như "làm giàu" tiếng Việt . Xét ra chữ QN đã được sử dụng chính thức 60 năm (từ thời chính phủ Trần Trọng Kim). Về chiều rộng, chữ QN đã phổ biến rộng rãi trên cả nước. Về chiều sâu, vẫn chưa có một tác phẩm viết bằng QN có thể so sánh được với "Bình Ngô Ðại Cáo", "Kiều", "Chinh Phụ Ngâm", v.v.. Thế nhưng thay vì tìm cách phát triển về chiều sâu này, người ta đã tìm cách thay đổi tự dạng. Mấy năm trước, cháu thấy nhan nhản các lối viết như "em of anh", "fường đội", "nhân dzân", v.v.. Khi hỏi đến các quí vị đã dùng các chữ trên thì cháu được trả lời nhưng câu đại loại như "làm giàu", " lớp già các ông hãy để lớp trẻ ..", "tiến bộ", "cải cách", .. Cứ như thể là cháu đã rất già, hủ lậu, cản ngăn sự tiến bộ của loài người .. Gần đây có nhiều vị lại nói "không cải cách thì không tiến bộ" ! Ðọc hàng chữ này, cháu cảm thấy các vị đó dùng từ quá "độc". Thôi thì cháu đã ở vào vị trí của kẻ "phản tiến bộ", thì đành phải .. vậy thôi .

Cháu lại nghĩ rằng "cải cách" thì cũng tùy theo chỗ mà làm. Ví dụ như về hình thức chữ QN đã phổ biến rộng đủ, từ Bắc chí Nam ai ai cũng biết, ai ai cũng chấp nhận. Nhưng về nội dung, mặc dù chữ QN có thể diễn tả các vấn đề trù tượng và hữu hình, thì vẫn có nhiều sai biệt cần phải giải quyết như chính tả chưa thống nhất, ngữ pháp, văn phạm chưa thật rõ ràng. Và về phương tiện điện toán, tin học cho chữ QN thì vẫn chưa có gì . Theo lẽ đó, hướng "canh cải" phải là chỉnh đốn thống nhất chính tả, sửa đổi hợp lý hoá ngữ pháp và văn phạm, nghiên cứu, cải tiến các phương tiện điện toán và tin học để ứng dụng cho chữ QN (như là làm sau để viết được chữ QN trên email, có dấu rõ ràng, ai cũng đọc được). Có làm được như vậy thì mới thật là làm giàu cho tiếng Việt, còn ngoài ra, nếu không gây hại thì cũng là thừa thải và phí công mà thôi .

Việc viết dính chữ với, thật ra cháu đã dùng "hàng ngày". Trong chỗ làm của cháu, để giúp cho một nhân viên tính toán những dữ liệu thí nghiệm sử dụng máy "computer" dễ dàng hơn (ông này vốn nguyên là một giáo sư hóa học người Nga và chỉ có một cánh tay), cháu và các đồng nghiệp đã tạo những "keywords" bằng cách viết chữ dính vào nhau, ví dụ như "OffOnOff, OnOffOn, FastFrequency, RatioDependence, AmyloidPeptide, NonStandardPipetteSolution, v.v..". Thế nhưng trong các bài gởi đăng trong các "journal", cháu vẫn ghi rời các chữ đó ra . Vì tất cả các nhân viên trong chỗ cháu làm đều không cho đó là một sự "cải cách" mà chỉ là một sự "tùng quyền" mà thôi . (cháu ghi điều này ra không có một ý nghĩ nào khác hơn là muốn nêu ra rằng trong vấn đề "viết chữ dính" cháu không phải là kẻ "hủ lậu" -- tuyệt đối không có ý nào khác). Việc viết dính chữ cháu chỉ xem như một phương tiện để vượt qua một trở ngại kỹ thuật nhất thời, không thể là một cải cách ngôn ngữ được.

Ngày còn bị giam, cháu có quen rất thân với một vị tu sĩ Phật giáo trẻ . Ông này rất dễ mến, lại tinh thông y lý .. Ông đã giúp cho nhiều người bệnh trong trại giam, từ tù nhân đến các "cán bộ quản giáo". Nên ai cũng quí mến ông. Khi được thả về, chính quyền không cho phép ông được ở thành phố (hcm) mà bắt ông đi "kinh tế mới" ở một vùng gần Long Thành. Sáu tháng sau, ông thầy tu này bị đói và .. bệnh mà chết. Khi đó chính quyền địa phương đã cấp cho ông một cỗ ván (cái áo quan, quan tài, cái hòm, v.v..). Khốn nạn và trớ trêu thay, cỗ ván được cấp lại ngắn hơn ông .. một tấc (tuy ông chẳng mấy gì gọi là cao, 1 mét 65). Cháu và xóm giềng gần đó như những người thân duy nhất của vị thầy tu này đã phải đắn đo trước sự khó khăn này: 1) chôn ông trong tư thế co chân; 2) chặt chân cho vừa cỗ ván ; 3) mua cỗ ván mới; 4) đi xin chính quyền cấp lại một cỗ ván khác ; 5) tìm cách sửa cỗ ván cho vừa với ông ; 6) tìm cách đóng cỗ ván cho ông ; 7) tìm các phương tiện khác .. Sau hơn nửa giờ thảo luận, xóm giềng tốt bụng đã làm cho ông một cỗ ván bằng những tấm ván ép che nhà mà họ đã đem theo lúc đi "kinh tế mới". Câu chuyện này chẳng có liên quan gì đến việc "viết chữ dính", nhưng có chỗ tương tự là nếu yêu mến một điều gì thì ta hãy bảo vệ điều đó, đừng ép nó cũng như đừng chặt nó ra từng khúc .. Tiếng Việt không phải là ngôn ngữ chết, không thể ví như cái xác chết được, nhưng đã yêu mến nó thì hãy tìm phương tiện tốt cho nó .. Ðừng vì một phương tiện tồi, mà bắt ép chữ lại với nhau .. vì việc đó có thể gây thêm sự chậm trễ cho việc canh tân dân trí, và có thể có những ảnh hưởng xấu cho sự liên tục của văn hóa, văn minh Việt Nam ..

Kính,
Trò Dốt Lê Hạ Mục


From:"LX Dong" <---@fptnet.com>
Wed, 10 Jul 2002 05:35:40 -0700

Chào bạn!

Sau khi đọc bài

"Sửađổi Cáchviết ChữViệt
Haylà ChữViệt Năm 2020"

Tôi thấy rất hay!

Nhưng, với những lời lẽ đầy thuyết phục, kiến thức sâu rộng như vậy mà lại đề xuất một ý kiến, có vẻ như là rất nhỏ nhặt và rất mang tính hình thức.

Sinh viên, có lẽ là một trong những tầng lớp trí thức đông đảo nhất của dân tộc. Hiện nay, trong chương trình bắt buộc, sinh viên phải học môn "Tiếng Việt". Bạn cứ khảo sát sơ qua tình hình học tập của sinh viên thì biết: Những gì cơ bản nhất về ngôn ngữ học và Tiếng Việt đang được các bạn chật vật nắm bắt.Tình hình ở trên cao học cũng vậy. Những thứ tưởng rất cơ bản về tiếng Việt mà vẫn cứ phải vất vả...

Dân ta trình độ dân trí nhìn chung tuy đã khá nhưng vẫn còn rất thấp. Cải cách giáo dục là chủ trương lớn và đúng đắn mà khi thực hiện đã rất lọng gọng.Những thứ thực tế và cấp bách như vậy mà đã làm chưa xong, nói chi đến việc thay đổi thói quen viết chữ như ý kiến của bạn. Tôi rất trân trọng ý kiến của bạn, và tôi cũng không phải là "cao nhân" phản bác ý kiến của bạn.Tôi chỉ muốn nói là nó quá sớm và rất khó khăn khi thực hiện (không tưởng).

 


Trảlời của dchph:

Chào bạn Dong:

Cảmơn bạn đã gópý vào vấnđề cảicách chữViệt.

Tôi hiểuý bạn về vấnđề chuyệnlớn cảicách chưaxong thì những chuyệnnhỏ như cảicách cáchviết cónghĩa gìđâu? Nhưng chuyện sinhviên yếukém về môn TiếngViệt không cảntrở việccảicách cáchviết đaâmtiết chữViệt mới. Khôngchừng cảicách sẽ làmcho họ kháhơn không trong lãnhvực nầy? Tạisao?

Ðúngnhư bạn nói, cảicách chữViệt cơbản là cảiđổi về mặt hìnhthức. Hìnhthức mới viết theo cáchthức đaâmtiết sẽ giúp trínão xửlý thôngtin nhiềuhơn và nhanhhơn. Chắcchắn là nhưvậy. Cáchviết mới sẽ đàoluyện tríóc trẻcon từnhỏ một thóiquen tưduy trừutượng và tổnghợp, một khảnăng cầnthiết trong việchọctập, nghiêncứu, và khoahọckỹthuật.  

Những người tinhthông một ngoạingữ nàođó (do tiếpcận với cáchviết đaâmtiết, còn cáchviết tiếngViệt rờirạc sẽ chora một bộóc "đơnâmtiết") chắcchắn đã lĩnhhội về điềunầy mộtcách tườngtận (cáchviết tiếngÐức là một thídụ điểnhình, chỉcần liếc một cái tiếpnhận ngay một "luồng" kháiniệm!) Và khảnăng tưduy nầy đã giúp họ thànhcông trong nhiều lãnhvực từ họchành chođến các kỹnăng khác trong đờisống khác. Thử nhìn xungquanh bạn xem, cóphải nhưvậy không?

Tôi có bànvề vấnđề nầy khánhiều trong bản tiếngAnh "Vietnamese2020 Writing Reform Proposal(DRAFT) mà chưa códịp hiệuđínhlại bản tiếngViệt. Hyvọng được bạn đểý tìmhiểu.

Trênđời đôilúc có những chuyện "khôngtưởng" mà trởthành sựthật. Tôi chấpnhận hysinh mộtphần thờigian trongđời mình cho chuyện "khôngtưởng" nầy vì cảmthấy sựcảicách sẽ manglại những íchlợi rõrệt và thiếtthực cho nướcnhà. Nếu nóilà cóhại hoặc khôngcólợi, anh cóthể đưara một vài lýdo chăng?


Kínhgởi anh Lean Kha:

Cảmơn anh viếtthư khuyếnkhích nỗlực vậnđộng cảitổ cáchviết chữViệt. Một anủi rấtlớn trong cuộc hànhtrình côđơn nầy. Những chốngđối và phảnkháng là những gì tôi đã ướcđoán sẽ có, chẳng làmcho tôi nảnlòng chútnàocả. Diễnđàn bên Việthọc không tiêubiểu cho sốđông cầutiến và hiểubiết.

Ðãlâu tôi chưacó thờigiờ để tiếptục dịch bộ Sửký Tưmã Quang vì 
ngườiđọc rấít. Tôi khôngcó ýđịnh xuấtbản thànhsách, chỉ đăng trên 
trangnhà vny2k.com mà thôi. Vì tôi nghĩ đâylà một phươngtiện truyềnthông rất rộngrãi trong thờiđại của chúngta và rấtít tốnkém. Chỉ tiếc là tựmình không đủ khảnăng và thờigiờ làmgì cả.

dchph

------------------------------------------

x X x

Tínhđaâmtiết trong tiếngViệt


Bàiviết: dchph

Dec.5.2002 01:57 am

Bạn cũng đãtừng thắcmắc là tiếngViệt cóphải là một ngônngữ đaâmtiết? Tôi nghĩlà câuhỏi nầy bạn cóthể tự trảlời bằngcách ngồixuống ghilại mộtcách tuỳhứng khônghệthống những từghép (gồm những từkép, haylà từghép songâmtiết, và từ ghép đaâmtiết,) nghĩ gì ghi nấy mộtcách dễdàng. Bạn cólẽ sẽ như tôi, sẽ điđến kếtluận là tiếngViệt là một ngônngữ đaâmtiết, hay nóiđúnghơn là một ngônngữ songâmtiết, bởilẽ trong tiếngViệt có quánhiều những từghép.

Tuỳtiện, tôi cóthể nêura hằngngàn từ, cóthể lênđến hàng chụcngàn từ. Thídụ: ngáoộp, giómáy, lộnxàngầu, lậtđật, bệurệu, mốckhính, thúiình, thắcmắc, trịchthượng, trịchbồlương, ởtruồngnhồngnhộng, trầntruồng, táymáy, tấtbật, bângkhuâng, bộpchộp, bồihồi, hữnghờ, phảnphất, mơhồ, chạngvạng, chậtvật, khúcmắc, ngờvực, bạttai, giangsan, tuyệcúmèo, sạchbách, yêuđương, thươnghại, ấmcúng, làmbiếng, tộinghiệp, mồcôi, goábụa, híhửng, thấpthỏm... càphê, càrem, càpháo, càlăm, càkêdêngỗng, lacà, càgiựt, càgật, càrá, càrà, càrỡn, càrờ, Càná, càtàng, càchớncàcháo, càtrậtcàduột, càrăng, càdựt, càràng, càlắc, càrịchcàtang, càtàng, càtửng... cùlần, cùlao, cùlét, cầncù, lùcù, cùrũ... hoahồng, hoahồngđỏ, hoasoan, hoavôngvang, hoahồngtrắng, hoacứtlợn, hoamắt, hoavăn, vănhoa, ngườiHoa, hoaquả, tàihoa, hoatay, hoaliễu, đàohoa, hoabiếtnói, hoahoèhoasói, bahoa, bahoachíchchoè ... bagai, batrợn, bamá, tàiba, bađồngbảyđổi, chúangôiba, hộtxíngầu, baphải, bahồi, baquân... táhoảtamtinh, cứuhoả, hoảlò, hoảdiệmsơn... châuchấu, bươmbướm, đuđủ, chuồnchuồn, lạcđà, sưtử... dưahấu, dưagan, bíđao, khổqua... trảđủa, chénđũa, bùlubùloa, xấcbấcxangbang, tầmbậytầmbạ, tầmphào, bảvơbảláp, trớtquớt, tầmgửi, contầm, bánhtầm, bánhít, bánhdây, bánhdày, bánhxe, coicọp, bắtcóc, đánhcá, cáđộ, cáthu, cáẻm, cáchép, cángừ, đánhđáo, độcđáo, laỏmtỏi, chầndần, càmràm, cằnnhằn, nhủngnhẽo, bângkhuâng, ngỡngàng, ngơngác, táymáy, tòmò, tọcmạch, heomay, cùichỏ, chânmày, bảvai, chómực, chómá, chóđẻ, nhàquê, nhàvăn, nhàngủ, nhàmát, nhàtu, nhàlao, laocông, laophổi, laođao, lậnđận, mộttay, taychơi, tàytrời, tayvợt...

Cơhồ như nhiềukhôngkểxiết! Có từ khôngthể táchra vì nếu táchra thành từng âmtiết thì tự chúng khôngcó ýnghĩa liênhệ đến từgốc, thídụ: cùlần, càlăm... Có từ cóthể táchra và những âmtiết cóthể cónghĩa nhưng khôngphải âmtiết nào cũng dùng độclập được, thídụ như: giangsan, dưahấu... Cótừ gồmcó trên ba âmtiết hoặc đaâmtiết, thídụ: tuyệtcúmèo, táhoảtamtinh...

Nhưng từghép, từkép, và từđaâmtiết là gì? Trên một nghĩarộng, từghép baohàm cả từkép và từđaâmtiết. Theo nghĩahẹp, từghép là từ do hai hoặc nhiều tiếng (hoặc vần) ghéplại mà trongđó mỗi âmtiết cóthể cónghĩa và đứng độclập như một từ, thí dụ: hằnghàsasố, loạnxàngầu, đòngang... Từkép là từ songâmtiết mà trongđó mỗi âmtiết khôngthể đứng mộtmình và dùng độclập như một từ -- và ởđây phạmtrù từkép và hìnhvị giaonhau, nghĩalà từkép là một từ có hai tiếng, nhưng chúng phải điđôi vớinhau mới cónghĩa, và đó cũng là đơnvị nhỏnhất có ýnghĩa gọilà hìnhvị (morpheme), thídụ: cùlần, bângkhuâng, mốngchuồng... Trongkhiđó từ đaâmtiết đượcxemlà từ từghép có từ hai âmtiết trởlên, thídụ: tuyệtcúmèo, thượngmãphong, chủnghĩatưbản... và loại từ nầy cóthể mang đủ đặctính của từghép, từkép, và từđaâmtiết...

Cóngười sẽ hỏi: vậy "tiếng" là gì? "Tiếng" ngoài ýnghĩa tiếngnói hay ngônngữ, trong ngônngữhọc nó còn đượcdùng để chỉ một đơnvị âmthanh cóthể baohàm các kháiniệm âmvị (phoneme - đơnvị âmthanh nhỏ nhất, thídụ như [n], [h]...), âmtiết, hìnhvị, vần, chữ và từ.

Mộtvài kháiniệm kểtrên có íchgì trongviệc xácđịnh tính đaâmtiết của tiếngViệt? Nóiđúngra, tiếngViệt là tiếng songâmtiết bởilẻ sốlượng từghép gồmcó hai âmtiết trong tiếngViệt chiếm một tỷlệ rấtcao trong từđiển tiếngViệt và cơhồ tiếngViệt có khuynhhướng songtiếthoá những tiếng thường đicặp vớinhau, tứclà chiềuhướng khi nóichuyện ngườiViệt thường ghépđôi những từ riênglẻ tự nó cónghĩa trọnvẹn và cóthể dùng độclập để tạo những kháiniệm mới. Thídụ: bởivì, trongkhi, phầnlớn, mộtsố, ởđây, nóichung, mọingười... (sosánh tiếngAnh: therefore, thereof, hereby, nevertheless, forever, everyone....) Nóitómlại, sốlượng từ có hai tiếng thường đichung vớinhau xuấthiện thườngxuyên trong tiếngViệt. Ta cóthể thínghiệm kiểmchứng điềunầy nếu nhờ một ngườingoạiquốc khôngbiết tiếngViệt nhưng có chútít hiểubiết về ngônngữhọc để họ quansát tầnsố của những tiếngđôi, cólẽ họ sẽ cho ta một khuônmẫu tươngtự nhưsau: xx xx xx x xx x xx x xx xx x xx..., trongđó các tiếng thường đi thành từng cặp xuấthiện với một tầnsố khácao. Giảthiết này cóđược làdo rútra kếtluận từ việc bạn cóthể đọc một đoạnvăn bấtkỳ nàođó, thídụ bàiviết nầy, bạn sẽ thấy từghép xuấthiện với một tỷlệ rấtcao. Hiệntượng nầy cũng dễ nhậnra trong thơphú và cadao Việtnam, khi đọc thơ hoặc ngâmnga, ta cứ nghe như chúng được cấutạo bằng những cặp từ. Tuỳtiện đọc câu thơ nào trong tiếngViệt bạn đều cóthể nhậnra điềunầy.

Ngoàira, xét trong mốiquanhệ mậtthiết giữa tiếngHán và tiếngViệt, cóthể nói tiếngViệt là một ngônngữ Áchâu thuộc ngữhệ HánTạng (Sino-Tibetan language family) -- trong bốnthậpniên gầnđây, trong giớingônngữhọc vẫn cholà tiếngViệt thuộc ngữtộc Mon-Khmer, tứclà đồnghọ với tiếng Caomiên. Ởđây tôi sẽ không bàncải về vấnđề nầy. Tôi sẽ chỉ nêura sựkiện là tiếngViệt và tiếngHán baohàm hầuhết những đặctính chung của hai ngônngữ về mặt:

- ngữâm (thídụ: phụâm và nguyênâm trong tiếngViệt có chứa những âmvị và âmtiết của tiếngHán cổ và hiệnđại),

- cấutừ (thídụ: bàntay, bảvai, đầugối, quảtim, tronglòng, )

- ngữcảnh (thídụ: trờiơi, đinhé, đượcrồi, xuốngxe, cởingựa, đánhcá, ngựaxe, ngườingựa),

- kếtcấu (thídụ: nướcnhà, nonsông, thắngbại,)

- loạitự (thídụ: giannhà, cơngió, quảtim, conđường, cáidao, chiếcđủa)

- hưtự (thídụ: và, với, sỡdĩ, tuynhiên, dùcho, đốivới...)

- thanhđiệu (dấugiọng có 8 thanh theo cách phânloại cổđiển, nghĩalà gồmcó 6 thanh như ta thường biết và cộngvới 2 thanh dấusắc và dấunặng đivới những vần kếtthúc bằng -p -t -k) hiệndiện trong tiếngHán nóichung.

- ngữpháp (cơhồnhư khi dịch từ Hán sang Việt, ta cóthể dịch theocách dịch từng từ một và kếtquả là ýnghĩa và câucú ănkhớp mộtcách thôngsuốt...)

Ðiểm khácbiệt duynhất của đặctính ngữpháp của tiếngHán và tiếngViệt là thứtự từ đảongược, thídụ nhưlà hìnhdungtự (adjective) đứngsau danhtự: trời xanh (so với thanhthiên) (Bạn cóthể sosánh tiếngAnh và tiếngPháp của cùng ngữhệ ẤnÂu.)

Ðó là chưakểđến rấtnhiều từcơbản trong tiếngViệt, tráivới nhiều kếtquả của nhiều nghiêncứu về nguồngốc Mon-Khmer của tiếngViệt, cóchung một nguồngốc, thídụ: cá, lửa, lá, đất, mắt, tay, chân, ăn, ngủ, đụ, ỉa, đái, đi, chạy, sống, chết.... (Xin mời đọc Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies )

Mối quanhệ Hán-Việt nầy cóíchgì trong việc xácđịnh tính songâmtiết của tiếngViệt? TiếngHán ngàynay được các nhàHángữhọc trên thếgiới thừanhận là một ngônngữ đaâmtiết vì khotừvựng trong ngônngữ nầy cóchứa mộtsố lớn những từ songâmtiết và mộtsố từ đaâmtiết. Tươngtự, khotừvựng của tiếngViệt hiệnđại cóchứa một sốlượng lớn từ songâmtiết và một sốít từ đaâmtiết. Trongđó, từ HánViệt chiếm một sốlượng đángkể (thídụ: phụnữ, thủtướng, thanhniên... -- hãy sosánh từ có gốcLatin trong tiếngAnh) cộngthêm với từ Nôm có gốcHán (thídụ: anhchị, chamẹ, ănuống, ỉađái...)

Trong tiếngHán đasố những từ songâmtiết như quốcgia, sơnhà, namgiới... là những từghép, do hai tiếng có đủnghĩa cóthể dùng độclập, nhưng ngườita vẫn xemnhưlà một từ, giốngnhư những từghép trong tiếngViệt: nướcnhà, sôngnúi, đànông... Nhưng đasố những từ songâmtiết HánViệt dùng trong tiếngViệt đượcxemlà từkép vì mỗi âmtiết của chúng khôngthể dùngriêng mộtmình. Thídụ ta không nói "lên sơn" hay "quốc tôi" được, vì chúng chỉ xuấthiện trong các kếthợp của từkép. Trong tiếngTriềutiên, là ngônngữ vaymượn khôngít từ Hán như tiếngViệt, và chữ quốcgia phiênâm của họ tuy thuộc dạng hìnhkhối như chữHán nhưng họ vẫn viết thành từngcặp những từghép có dạng xx xx xx xx.

Nhưvậy, chỉ tính sốlượng từ HánViệt dùng trong tiếngViệt khôngthôi, ta cóthể kếtluận tiếngViệt là một ngônngữ songâmtiết. Ðọc bấtkỳ một đoạnvăn nào, ta cũng cóthể rútra một sốlượng lớn từ HánViệt. Khôngcó từ HánViệt, tôi erằng tiếngViệt sẽ "bấtthànhcú"!

Kểthêm vàođấy những từghép Nôm có gốcHán, có cùng cáchcấutạo như từ HánViệt, ta sẽ có thêm những thídụ điểnhình để củngcố lậpluận tínhsongâmtiết của tiếngViệt. Thídụ: đánhcá, bắtcóc, xecộ, chàilưới, tàubay... Và sốlượng từloại nầy đã sảnsinh ra vôsố từkép khác dưới dạng từláy. Thídụ: ngungơ, khờkhạo, lanhlẹ, gầngũi, gấpgáp...

Hiệnnay vẫncòn rấtnhiều người vẫncòn chorằng tiếngViệt là một ngônngữ đơnâmtiết bởilẽ giảndị là đasố vần (hay âmtiết -- syllable) đềucó hàmchứa ýnghĩa nàođó dù có hoặc khôngcó quanhệ với từgốc. Thídụ: cù, cà, ba... Về mặt nầy, vần trong tiếngViệt mang đầyđủ tínhcách của vần tiếngHán! Một chữ hìnhkhối trong chữHán baogiờ cũng mang một ýnghĩa nào đó, nhấtlà trong cổ Hánngữ. Nên nhớ là chữViệt cho tới cuối thếkỷ 19 vẫncòn cóngười dùng cáchviết hìnhkhối của chữHán.

Ngoàira, trong tiếngViệt cũng hàmchứa mộtsố từvựng vaymượn từ tiếngPháp và tiếngAnh, tuy khôngnhiều nhưng đủ để cho ta suyngẫm về bảnchất đaâmtiết của tiếngViệt. Thídụ: càphê, xàphòng, salông, bancông, càrem, quánhtútì, phen (friend), ápphe, monitor, computer, harddisk, sờnáchba.... Ðảongượclại, nếu ta loạitrừ những yếutố vaymượn những từ có gốcLatin và Hylạp trong tiếngAnh, ta sẽ thấy gì?

Ta cóthể nóirằng ngônngữ có khuynhhuớng pháttriền từ giảnđơn đến phứctạp. TiếngViệt rất cóthể làđã pháttiển từ đơnâmtiết sang đaâmtiết, mặcdù những từ cơbản đượcxem "thuầnViệt" như bảvai, đầugối, mồhôi, cùichỏ... cóthể có nguồngốc rất cổ và ta khócóthể táchrời thành những đơnvị nhỏhơn nữa.

Trên thựctế, tấtcả ngônngữ trênthếgiới ngàynay đềulà ngônngữ đaâmtiết. TiếngViệt không ngoạilệ. Tôi tháchthức những ai tìmra chođược một ngônngữ nào đượcxem là một ngônngữ đơnâmtiết trênthếgiới. Chỉ cần dùng "common sense", làm một bàitính nhỏ ta sẽ thấy nếu một ngônngữ chỉ đơnthuần hàmchứa từ đơnâmtiết, trong ngônngữ đó cần baonhiêu từ (chỉ gồmcó một vần hay âmtiết -- syllable) để đủ gọi là một ngônngữ hoànchỉnh? Ýtưởng chorằng có ngônngữ lạchậu và có ngônngữ tiêntiến là một quanniệm phảnđộng và kỳthị, nhưng trong trườnghợp này, nếu trên thếgiới tại một nơi nàođó còn tồntại một thứ ngônngữ hoàntoàn mang tínhchất đơnâmtiết, ngônngữ đó phải thuộc một bộlạc bánkhai nàođó cònsống trong trạngthái ănlông ởlỗ, nếukhông, chỉ nội những từ ngoạinhập của tiếngAnh kỹthuật như internet, computer, online, software, hardware, megabyte, gateway... là đủ để nói rằng ngônngữ đó là một ngônngữ đaâmtiết.

dchph


-----------------------------

Ma^'t go^'c

 ATran

Apr.27.2003 01:44 am

Ngu*o*`i D-*'c tho^ng minh ho*n ngu*o*`i kha'c.

Nhu*~ng ngu*o*`i kha'c pha?i bi. tie^u die^.t hoa(.c ma^'t gio^'ng

chi? d-e^? ngu*o*`i D-u*'c to^`n ta.i ma` tho^i . . . va^n va^n.

D-o' la` mo^.t kie^?u pha^n bie^.t chu?ng to^.c be^.nh hoa.n d-a'ng thu*o*ng.

Xin lo^~i d-a~ no'i tha(?ng chu*' kho^ng ke^? chuye^.n d-e^? la`m ba.n kho'hie^?u. To^i kho^ng co' y' ma^'t lo`ng ba.n, ma` chi? no'i nga('n ma` tho^i.

Tie^'ng Vie^.t co' d-a(.c d-ie^?m mo^.t a^m mo^.t tu*`, va` co' the^? co'tu*` ghe'p, du`ng nhie^`u tu*` d-o*n ban d-a^`u. Ne^'u d-a(.c d-ie^?m na`yma^'t d-i thi` tie^'ng Vie^.t bi. ma^'t go^'c.

Ca?i ca'ch na`y co`n ga^y kho' kha(n khi d-o.c vo*'i ngu*o*`i gia` hoa(.c ma('tke'm. Ngoa`i ra, co`n pha?i ba('t ho.c sinh ho.c the^m va`i na(m nu*~a d-e^?vie^'t d-u'ng tie^u chua^?n ca'c tu*` ghe'p tru*o*'c khi va`o d-a.i ho.c. Saud-o ha`ng chu.c na(m sau, nhu*~ng tu*` ghe'p na`y va^~n co`n pha?i d-o^?id-i d-o^?i la.i tru*o*'c khi ta.m tho*`i o^?n d-i.nh theo tie^u chua^?n ca?nu*o*'c, trong khi ca'ch vie^'t cu~ va^~n d-u*o*.c nhie^`u ngu*o*`i thi'ch.Du` cho cu*o*`ng bu*'c da^n theo ca?i ca'ch na`y, ba.o lu*.c co' tha('ngd-u*o*.c cha(ng?

 --------------------------------------------

dchph: Hốhố... 

----------------------------------------------

BÌNHLUẬN

Sửađổi Cáchviết TiếngViệt

Author: Nguyễn Gia (216.40.243.---)
Date:   Saturday 03-09-02 10:24 (PST)

Xem qua cuộc tranh luận nóng hổi này, chợt nhớ tới một bài viết của giáo sư Cao Xuân Hạo, trong đó cũng có nói đến những "phát minh để dân tộc tiến bộ hơn", nên xin đăng ra đây để quý vị đọc chơi:


- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
CHỨNG VĨ CUỒNG
HIỆN TƯỢNG VÀ CĂN NGUYÊN

Cao Xuân Hạo

[Phần tríchdẫn bàiviết ghitrên.]

...

-----------------------------------------

Author: Tran (---.sbphrd.com)

Date:   Monday 03-11-02 13:47 (PST)

Chà Nguyễn Gia tiên sinh kiếm đâu bên tờ giấy gói đồ Nhân Rân ra bài của Cao Xuân Hạo đọc xong bồi hồi ra phết. Tưởng ai thì ra là đỉnh cao trong nước. Tiếc cho dòng họ Cao Xuân được tiếng là uyên bác từ đời trước, tới đời cháu lại ấm ức kê đơn cho người đời thì ra cũng đang bộc phát một căn bệnh cuồng. Thiệt ra miềng cũng không biết họ Cao này đang bất mãn sự tình chi mà cứ ấp a ấp úng, đâu phải giới không chuyên thì phải ngậm miệng cho giới chuyên tha hồ phóng bút. Miềng không biết đá banh thì miềng cũng biết luận banh chơ! Miềng không làm lãnh tụ, thì miềng cũng biết ai hay ai dở. Miềng không phải là nhà văn hóa nhưng biết chổ nào là văn hóa "thượng lưu" chổ nào chắp vá, chổ nào là bản sắc. Nói chuyện như huề. Ngay cả mấy nhà văn tưởng mình có tác phẩm là ngon, như chị Thị Hoài trong nước tự nhiên nổi quạu với chữ Nôm chê là khổ dân. Bởi chị ỷ thế là nhà văn nên giới văn học chìu cho cách nói bạt mạng của chị.

Nhân đây miềng cũng kể cho chuyện mình đọc bài bên tờ Nhân Rân phần lớn do văn nô, báo nô mất sĩ khí viết nên. Cao Xuân Hạo tới giờ này vẫn còn tin tiếng Việt là hệ Mon-Khmer. Thôi thì tán hươu tán vượn tùm lum. Dạy đời, tưởng là không ai đối chứng được với Nhân Rân thì viết chi cũng được. Đọc xong miềng cười. Mục hạ vô nhân, tưởng có hàm giáo sư là đứng trên đầu thiên hạ, tha hồ phét lác, kiểu nửa kẻ sĩ, nửa cộng sản rất lạ tai. Bởi rứa cả bao năm các nhà ngôn ngữ Bắc Hà - Nội xếp tiếng Nguồn quê mình là tiếng Mường. Ai dè, chuyên tới cỡ nớ mà hiểu chuyên dân gian thua một đứa trẻ giữ trâu.

Thôi thì, Cao cũng không đụng chi tới chuyện cải nhau ở đây, chẳng qua Nguyễn Gia cũng xuất chiêu mượn quạt đuổi ruồi, mà tiếc là chẳng phải là ruồi muỗi chi cả. Mấy nhà chuyên chắc là lắm sự hồ đồ, sợ người ngoài giới lên tiếng mới chơi trò trấn áp hạ sách vậy. Ý tưởng mới không hợp tình sẽ bị đào thải, nhưng cũng phải có môi trường cho nó nảy nở chứ! Ai dè, cứ bắt ngang chưa phân loại đã dán cho cái mác là Vĩ Cuồng. Coi chứng Cao Xuân này cũng đang tự kỷ ám thị, nếu không thì sao đòi bắt trúng tâm lý người đời nghe như xiệc. Chả đâu có phải là nhà tâm lý đâu! Nghe đâu là nhà ngôn ngữ học Cao, mà tới giờ này còn mơ hồ về ngữ hệ Nam Á và Hán Tạng thì coi như thua. Miềng nghe giáo sư Mỹ đi về VN nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ văn hóa nói là "Their views are so objective...", cho nên sử liệu VN mấy phần chính xác, mấy phần tự cao tự đại. Mấy cái cao đại chủ kiến này cứ chất chồng lên nhau nên có ai tin chiều dày mà nhảy chồm lên một cái là hụt trớn, lún xuống ba tầng. Giựt chắc!!!

Lâu lâu, các nhà hàm giáo sư CS cay mắt chuyện đời lại sợ đời quên nên nhờ đảng tịch phóng một bài giáo huấn chúng sinh nghe rất là phản tiến bộ, lại mát mẽ nghe tưởng như phản kháng thì ra vô hại nhưng đa phần là trấn áp tinh thần. DCS ngư ông đắc lợi. Cứ nhờ mấy bài như ri diễn sao cho có lợi thì thôi. Ở ngoài này cũng thừa cơ ăn theo. Cứ theo mấy tuồng văn như trên thì khác chi đang đọc Mao Tuyển. Cong cũng hay, ngay cũng được, xuôi cũng được, ngược cũng xong.

Đoạc boài nài xoang thái Coa Xung Họa méc cừ thừ thâu heng!

Chắc là cũng nhờ Nhân Rân mà tàng tàng mát mát, Nguyễn Gia tiên sinh ha!


x X x


"Gópý Ðôi Ðiều"
về "Sửađổi Cáchviết TiếngViệt"  


Nguyễn Phước Đáng

Người bên kia đầu dây tự giớithiệu là Lê-Bình. Anh chưa quen biết tôi, nhưng anh nghe một bạn văn nói rằng tôi quantâm đến chuyện cảitiến chữ Việt mà gọi phone đến làmquen, chỉ cho tôi website www.vn2yk.com, đềnghị tôi tìm đọc thử những bài viết cảicách của nhiều tácgiả.

Ngay sau cuộc điệnđàm, tôi tìm đọc những thứ ấy. Từ những bài viết đó, tôi cảmhứng viết bài góp ý nầy. Cái cảmhứng đầutiên là biết được đang có một nhóm trẻ Việtnam (tôi kể 40- 50 là trẻ, dĩnhiên dưới 40 cũng là trẻ), tại quê người, đấm mình trong Tâyhọc, mà còn quantâm đến chữnghĩa nước nhà. Từ lâu, tôi cứ nghĩ chắc chỉ còn một số rất ít những người lớn tuổi còn lưuluyến quốcngữ mà thôi. Tôi mừng lắm vì thấy mình không quá lẻloi trong việc đềnghị cảitiến chữ Việt. Mình đâu còn mấylămhơi để đi suốt con đường cảitiến. Đám trẻ mới là lựclượng đạt được thànhquả mongđợi.

Tôi đọc hầu hết những bài viết loại đó trong Vny2k. Có thể nói tuy nhiều bài, nhưng chỉ có một đềnghị duynhứt là viết dính liền những từ đaâmtiết. Trong bài viết nầy, tôi chútrọng nhiều đến bài “Sưađổi Cáchviết ChữViệt”(Chữ Việt năm 2020) của tácgiả dchph và bài “Ngônngữ & Trítuệ” của Nguyễn-Cường. Tôi đọc ít ra là 2 lần mỗi bài: lần đầu để biết nộidung bài viết, lần sau tôi ngừng từng chập để ghi ra những chỗ cần góp ý.

Cảmnhận trước hết của tôi là những người chủxướng viết dính liền là những người chịu ảnhhưởng Tâyhọc quá nặng. Theo tôi, viết có gạch nối triệtđể các từ ghép là đủ rồi. Tôi nói triệtđể có nghĩa là viết có gạch nối luôn cả những từ ghép Nôm. Trước kia, trong Nam là trước 75, mọi người từng viết có gạch nối những từ ghép, nhưng chỉ những từ ghép Hán-Việt mà thôi. Tôi đềnghị, nếu viết có gạch nối, thì nên viết có gạch nối luôn những từ ghép Nôm, vì lý nào mà từ ghép nầy (Hán-Việt) viết có gạch nối mà từ ghép kia (Nôm) lại không (Viết vậy là không nhấtquán). Do quá thathiết với chủtrương mới nầy, nên, theo tôi, những người chủxướng nóng vội, có vẻ như thiếu nghiêncứu đầy đủ trước. Ý tôi muốn nói là quí vị chưa đưa ra rõràng quitắc viết dính liền. Quí vị có nói viết dính liền những từ ghép, nghĩa là những chữ ghi lại lời nói đaâm. Có nói như vậy, nhưng khi đọc bài của quí vị, tôi có cảmgiác quí vị viết dính liền tuỳ hứng, nghĩa là quí vị viết dính những từ, theo tôi, không phải là từ ghép, nghĩa là cắt rời ra những chữ viết liền nhau đó, thì hai hay nhiều chữ đó vẫn có nghĩa, đứng một mình được. Số chữ được quí vị viết dính liền như vậy nhiều, nhiều lắm, ghi ra không xuể. Tôi đọc và ghi ra được chừng hơn nửa bài của quí vị thì đã đầy trang giấy rồi, nên tôi bỏ cuộc, không ghi ra hết.

Dưới đây, tôi chép ra một số từ nêu trên, nhiều được đến đâu hay đó:

Chép ra từ bài viết của tácgiả dchph:

Cáchviết, chữViệt, chậmnhất, khácnhau, đólà, chữviết, cầnphải, khôngphải, nàođó, khôngđược, nhưlà, manglại, câuhỏi, nhậnthấy, Háncổ, bướcpháttriển, nhưvậy, khôngcòn, chorằng, từxưađếnnay, từsongâmtiết, gióheomay, ngủlibì, dốtđặccánmai, cờbayphấtphới, cáchnhìn, đềuđược, tựhỏi, gầnnhư, gạchnối, nếucóchăng, đichung, theokiểunày, khôngngừng, thêmvàođó, cọngthêmvới, bỏthìgiờ, trongbài, cầnđược, thiênvề....

Chép ra từ bài viết của tácgiả Nguyễn-Cường:

Đấngthiêngliêng, câutrảlời, quánhiều, mẫusốchung, thídụnhư, dùngđể, nghegiảng, bàihọc, còncó, trínhớ, câychuối, sauvườn, bằngcáchnào, saucùng, lậplại, gầngiốngnhư, băngngang, cảhai, bêntrái, đưatay, gạtđi, nếucó, vậtlạ, trướckhi, ngoàiýmuốn, đisâu, cũngxin, chorõ, sựhiểulầm, chỉmớilà, chưađủ, cáchkhác, cáichuyện, chưacóai, đưaqua, trướckhi, vốnsẵn, tínhtrời, sinhrađời, khoảngchừng, ngaytạiđây, máyvitính, màbâygiờ, ngaytrên,...

Tôi thật tình không biết các chữ theokiểunày, cọngthêmvới, bỏthìgiờ, cũngxin, chỉmớilà, sauvườn, băngngang, bêntrái, đưatay... quívị viết dính liền là theo nguyêntắc nào. Tôi nghĩ chắc quí vị dịch sang tiếng Mỹ, và thấy chữ nào Mỹ viết có một chữ mà chữ Việt mình có nhiều chữ thì nhiều chữ đó phải viết dính lại mới đúng phép. Nếu đúng như vậy thì thật là ngâyngô (và như tôi viết ở đầu bài là quí vị chịu ảnhhưởng Mỹ hay ngoạiquốc quá nặngnề)

Xin phép nhắc lại, do thấy những chữ viết dính liền như vậy quá nhiều, nên tôi có cảmtưởng quí vị viết theo cảmhứng mà không theo một quitắc nhấtquán nào cả. Tôi cho rằng quí vị nóng vội, vì quí vị kêu gọi nhiều người viết theo lối mới như quí vị, mà quí vị không nghiêncứu đưa ra quitắc để người ta có thể theo đó mà làm được.

Bâygiờ, tôi xin bàn thêm về chuyện đaâm và đơnâm trong lời nói và đaâmtiết và đơnâmtiết trong chữ viết. Tôi phânbiệt trong lời nói thì có lời đơnâm và có lời đaâm, còn chữ viết thì có chữ đơnâmtiết và chữ đaâmtiết, nghĩa là chữ có một vần hay chữ có nhiều vần (âmtiết=vần) Chữ có 2 vần, 2 âmtiết, thì còn gọi là chữ songâmtiết.

Trong sách “Tiếng Việt & Chữ Việt”(1) có bài viết “Đơn hay Đa”, tôi viết đạikhái như vầy:

“Nếu từ ngônngữ và từ tiếng chỉ có nghĩa là lời nói thôi, không gồm chữ viết trong đó, thì tôi rất đồngý với Giáosư Nguyễn Đình-Hoà là ‘tiếng Việt là ngônngữ đatiết (đaâmtiết)’ ”

Tôi viết tiếp ở đoạn sau:

“Chữ viết Việtnam (hay chữ quốcngữ hiện đang dùng) thuộc loại chữ đơntiết. Baogiờ ta viết dính chùm như vầy kiếntrúcsư, câulạcbộ, kịchtácgia... lúc đó ta sẽ có quyền nói lại ‘Ngônngữ Việtnam (tiếng nói và chữ viết) đaâmtiết như chữ Pháp và Mỹ’ ”

Tôi viết trong sách rằng tiếng nói của bất cứ dântộc nào cũng đaâm. Vậy xét đơn hay đa là xét trên chữ viết chứ không phải xét trên lời nói. Tôi nói theo suyluận có dẫngiải, nhưng bị nhàvăn Diệu Tần (tức Giáosư ngônngữ Nguyễn Tinh Vệ) phêbình là là không chắc. Ông hỏi tôi có nghiêncứu hết các thứ tiếng trên thếgiới chưa, mà dám quảquyết là tấtcả đều đaâm? Tôi chịu thua, vì nềntảng suyluận của tôi đúng là không vữngchắc trước câu hỏi cụthể như vậy. Nay tácgiả dchph cũng nghĩ là tất cả ngônngữ trên thếgiới đều đaâm. Tôi nhớ lại câu hỏi của nhàvăn Diệu Tần. Và không biết dchph dựa vào tàiliệu nào hay cũng chỉ căncứ vào suyluận như tôi?

Trong quyển sách “Quốcngữ Lưuvong” sắp in xong, tôi phátbiểu đạikhái là từ trước khi có chữ quốcngữ, ta có chữ Hán (đọc theo giọng Việt) và chữ Nôm. Hai thứ chữ đó là loại đơntự (mỗi chữ đọc ra một tiếng mà thôi). Cái ảnhhưởng đơnâm, đơntự đó bámvíu lấy dântộc ta cho đến bâygiờ, dù ngày nay ta có thứ chữ kýâm dùng hệthống mẫutự Latin. Từ trước, người xưa vẫn biết lời nói của dân mình là đaâm, nên đã từng dùng dấu gạch nối để liênkết số chữ rời (đơntự) ghi lại lời nói đaâm thành từ ghép, một hìnhthức khác của từ đaâmtiết, dunghoà cái ảnhhưởng đơnâm và nhucầu đaâm. Ngày nay, đaiđạsố lại bỏ dấu gạch nối, biến chữ viết thành thứ chữ đơntiết. Đó là một chuyểnbiến không phải là thiếu căncơ, nói một cách khác nặng lời hơn như lời phêphán của ông Đoàn Xuân “Chữ Việt không có gạch nối là chữ sơkhai”(1) Mà vôtình người ta pháthiện thấy viết thiếu dấu gạch nối không sao cả, không làm người đọc hiểu khác với ý người viết. Một lần thấy vậy, nhiều lần thấy vậy và gần như tấtcả các lần đều thấy vậy, nên mọi người mạnh tay bỏ luôn dấu gạch nối. Mà quả đúng như vậy. Bây giờ trên 90% sáchvở, báochí trong nước, ngoài nước viết không có gạch nối, mà mọi người đọc đều hiểu đúng với ý người viết. Vậy nhìn chữ Việt đang dùng mình phán được một câu như đinhđóngcột là “chữ Việt đơn âm tiết” (Tuynhiên, xét thật kỹ thì có một số khá lớn chữ Việt đang lưuhành là songâmtiết mà tôi đặt tên cho nhóm chữ đó là chữ hoàâm. Đó là các chữ Nguyễn, Hoàng, Tuấn, Tuyết, Thoảng... Mỗi chữ có hai âmtiết: Nguyễn có âmtiết Ngu và âmtiết yễn (vần xuôi Ngu và vần ngược yễn). Đọc 2 âmtiết liền lại thì ra Nguyễn; Hoàng = Ho+àng; Tuấn = Tu+ấn; Tuyết = Tu+iết, Thoảng = Tho+ảng...)

Dưới tên tựa chính “Sửađổi Cáchviết ChữViệt”, tácgiả dchph thêm tên tựa phụ “ChữViệt Năm 2020”, người đọc hiểu đây là tiênđoán của tácgiả, đến năm 2020 thì chữ Việt sẽ được viết như vậy. Tôi nhậnđịnh đó là một tiênđoán không thấy được. Dưới đây là lậpluận cho lời nhậnđịnh của tôi:

Tôi là người đang rất thathiết với chuyện cảitiến chữ viết quốcngữ, bỏ tiền in quyển “Tiếng Việt & Chữ Việt”, không lấy lại được vốn, lại sắp sửa bỏ tiền in quyển “Quốcngữ Lưuvong”, chắc cũng khó lấy lại được vốn, để mong phổ biến ước vọng cảitiên của mình. Trong quyển sau, tôi in 4 bài bằng lối viết dính liền các từ ghép. Như vậy, tôi là người đang đấm mình trong cách viết và đọc các chữ viết dính liền. Tôi có quitắc để tuân theo mà viết dính liên. Vậy mà tôi không tin là đạiđasố người Việt chấpnhận chuyện viết dính liền. Quitắc để viết dính liền không có gì rắcrối cả, chỉ tómgọn có một câu “Viết dính liền những từ kép” Xácđịnh rõ hơn thì thêm địnhnghĩa “Từ kép là nhiều từ đơn ghép lại, nếu cắt rời ra thì từng từ đơn đó không đủ nghĩa, không đúng với ý người viết” Đơngiản như vậy, nhưng không thựchiện nổi, vì ngay những nhàvăn nhàbáo cũng mùmờ về từ kép, nhứt là từ kép Nôm. Vănsĩ, kýgiả, những người sửdụng chữnghĩa hằng ngày mà còn như vậy, thì mọi người bìnhthường khác còn tệ hơn biết bao. Tôi đọc trôichảy những chữ viết dính liền của quí vị gần bằng tốcđộ đọc chữ bìnhthường. Nhưng tôi đoán nhiều người không đọc dễdàng như vậy. Và đọc khókhăn, không thoảimái thì người ta không đọc. Đọc mà còn vậy, thì viết còn khókhăn hơn nữa. Tôi có cảmgiác là quí vị chỉ nhắm vào đốitượng là những nhà ngônngữhọc, mà giới nầy có được bao nhiêu người. Vậy cái thờihạn 18 năm nữa chữ Việt viết dính liền được phổcập rộngrãi là không thựctế, là khôngtưởng.

Giảvụ, nếu đềnghị cảicách nầy được Hànlâmviện quốcgia chấpnhận đi nữa, thì thờigian 18 năm cũng không đủ để thựchiện nổi. Côngviệc đàotạo độingũ giáoviên thật camgo và lâu dài...

Nói là nói vậy cho hết lẽ, nhưng tôi rất hoanngênh ýkiến cảicách của quí vị. Tôi hoanngênh vì lýdo hợplý, tiếng nói đaâm thì chữ viết cần đaâmtiết cho phùhợp, chứ không phải vì tin vào lời suyđoán rằng dântộc có chữ viết đaâmtiết thôngminh, thànhcông hơn dântộc có chữ viết đơnâmtiết. Chuyện thôngminh, tiếnbộ, thànhcông... tuỳthuộc vào nhiều yếutố khác quantrọng hơn là chữ viết. Những thínghiệm mà tácgiả Nguyễn-Cường nêu ra trong bài viết nghe có vẻ khoahọc, nhưng tôi không tin là đúng như vậy. Nhiều người chắc cũng không tin “đổi chữ viết thành đaâmtiết thì sẽ làm cho dântộc mình tiếnbộ hơn”. Tôi tin “đổi chêđộ thành tựdo, dânchủ thì chắc dântộc mình khá hơn mọi mặt kể cả mặt trítuệ”.

Tácgiả dchph có gợi ý phươngthức cảicách dùng s thay cho chữ sĩ, để gắn vào phía sau những chữ thi, ca, nghệ, văn... mà thành ra this (thisĩ), cas (casĩ), nghệs (nghệsĩ), văns (vănsĩ)... dùng f thay chữ phi để gắn vào phía trước những chữ nghĩa, lý, quânsự, chínhphủ mà thành ra fnghĩa (phinghĩa), flý (philý), fquânsự (phiquânsự), fchínhphủ (phichínhphủ)... Làm như vậy là ta có tiếpvĩngữ, tiếpđầungữ như chữ Pháp, chữ Anh. Những ýtưởng cảicách như vậy làm lộ rõ chuyện chịu ảnhhưởng nặng ngôn ngữ Pháp, Anh.

Quốcngữ, chữ Việt ta đang dùng, là thứ chữ kýâm, dùng kýhiệu Latin ghi lại tiếng nói, nó có những quiước âm nào ráp với âm nào thì ra tiếng gì. Nay ta lại quiước một lần nữa một âm thay cho một chữ, s=sĩ; f=phi z=gia, th=thuật... thì loạn rồi. Những quiước loại nầy chỉ dành cho tốcký mà thôi. Ghi bằng tốcký rồi, sau đó phải chuyển lại thành chữ thường người khác mới đọc được. Bắt mọi người đọc chữ tốcký thay cho chữ thường là vôlý và khôngtưởng.

Tôi là người hiểu thấuđáo cách viết dính liền cảicách của quí vị, bằngchứng là tôi viết trôichảy được bài nầy theo cách viết đó, và có lẽ còn chuẩn hơn quí vị, tôi không viết dính liền quá đáng như những chữ tôi đã chép ra ở trên. Tuynhiên, tôi chưa cổxuý cho việc nầy, vì còn nhiều vấnđề cần cẩnthận xét lại, như chuyện xé rời các chữ đaâmtiết ra để dạy đọc và viết cho con trẻ, rồi sau đó mới nhập lại. Tôi nghĩ, để rời ra dạy con trẻ dễ và mau biết đọc biết viết hơn. Nói về mặt toàn dân thì chuyện dạy cách nào cho mau đọc được, viết được là điều cầnthiết. Từ đọc được, viết được đến hiểu được ýnghĩa chữ viết không khó. Đi con đường chữ đơnâmtiết nhanh gọn hơn con đường chữ đaâmtiết.

Còn về mặt thica nữa. Thica thuần Việt có vè (mỗi câu bốn tiếng), thơ lụcbát (câu sáu tiếng rồi câu tám tiếng), thơ songthấtlụcbát (hai câu bảy tiếng, rồi câu sáu tiếng, đến câu tám tiếng) Thơ chịu ảnhhưởng của Tàu là thơ ngũngôn (mỗi câu năm tiếng), thơ thấtngôn (mỗi câu bảy tiếng), thơ Đườngluật (bài tám câu, mỗi câu bảy tiếng) Từ trước mỗi chữ Tàu, mỗi chữ Việt là một tiếng. Nay các chữ đaâmtiết có từ hai đến ba, bốn, năm tiếng, chừng làm thơ phải xé rời ra chăng để đếm xem câu thơ thừa thiếu tiếng ra sao! Câu đối nữa! Mà thica, câu đối là một khuvực vănhoá trong tâmhồn dân Việt, thiếu không được. Tôi nghĩ, quívị chưa nghiêncứu đủ mọi khía cạnh khác, mà chỉ cảtin vào một phỏngđoán không chắc là “thứ chữ đa âmtiết làm con người thôngminh, tiếnbộ hơn” rồi hốihả viết dính liền chữ Việt lại, không cần nhìn trước ngó sau.

Tôi chântình góp ý với quí vị và đềnghị cùng quí vị có nhiệttâm về vụ nầy “quí vị hãy họp nhau thảoluận, củngcố lập luận vữngchắc, tìm cho ra quiđịnh nhấtquán về từ ghép” để có cho kỳ được một quitắc chấpnhận được, rồi in thành một tập sách như là một luậnán ngônngữ vậy, côngbố cho nhiều người biết, rồi chờđợi khi nào quốcgia có Hànlâmviện, chánhthức trình luậnán đó để được cứuxét. Theo tôi, cảicách viết dính liền chữ đaâmtiết chỉ thựchiện được trên tầmcỡ quốcgia. Quí vị đang có tưtưởng cảicách tầmcỡ như vậy là một hảnhdiện tolớn. Tôi rất kínhtrọng quí vị trên phươngdiện nầy. Chúc quí vị thànhcông./-

San Jose, đầu Xuân 2002 (3/2002)

Nguyễn Phước Đáng*

Tel: (408) 929- 7318


(1) Tiếng Việt & Chữ Việt của Nguyễn Phước Đáng, xuấtbản năm 2001


(1) Nguyênvăn “có hai loại tác-phẩm, một là của những người dùng Việt-ngữ sơ-khai và hai là của những người dùng Việt-ngữ tiến-bộ” Ông Đoàn Xuân phán rằng viết không có gạch nối từ kép là dùng Việtngữ sơkhai.


* Đềnghị quí vị tìm đọc quyển Tiếng Việt & Chữ Việt của tácgiả, xuấtbản năm 2001 và quyển “Quốcngữ Lưuvong” sẽ phát hành vào tháng 5/2002


-----------------------------------------------------


Trảlời của dchph:

Cảmơn anh đã chântình gópý và bìnhluận về vấnđề nầy. 

Tôi nghĩlà anh không lẻloi trên chiếntuyến vănhoá này đâu -- đâylà vấnđề chung của mọingười trong chúngta, phảicó người đưara ýkiến, cóngười dấyđộng, thì ýtưởng về vấnđề nầy mới được ngườita biếtđến, mới gâyđược ảnhhưởng hầumong tạothành phongtrào. Trong vậnđộng nào cũng phảicó ngườicầmcờ đitrước. Như anh thấyđấy cuộcchiến camgo đang bướcvào hồi lâmtrận. 

Trangnhà vny2k là "vùngbắn tựdo", không nhấtthiết phải theo một ýtưởng hay đềnghị nào, mỗingười đều cóquyền nêura quanđiểm của mình, miễnlà chấpnhận sựcảicách. Cóthể anh sẽ khôngđồngý với tôi về chủtrương nầy trong vấnđề "Cảicách TiếngViệt", nhưng mộtkhi ýtưởng cảicách đã chínmuồi được nhiều người quantâm và chấpnhận, đếnlúcđó ta sẽ bàn sâuhơn vào chitiết. Mỗingười một ý, ýtưởng nào được sựtánthành nhiềunhất là ýtưởng nên được mangra bànthảo. Kếtquả nào cũng tốt cho côngcuộc cảicách tiếngViệt. Côngtrình nầy cóthể 18 nămsau mới cóthể thựchiện được, cóthể chẳngbaogiờ, cũng cóthể là ba năm sau. Nắmđược quyềnlực trongtay là làmđược chuyện nầy. Nhưng phải đặt cảicách lên hàng ưutiên -- biết sai thấy sai mà không sửa đãđành, còn "ăn khôngđược thì pháthối" là một tháiđộ khôngthể chấpnhận được.

Cáikhókhăn của ýhướng cảicách là những chướngngại trongviệc gầydựng một vườnhoa vănhoá mới. Cầnphải đặtđểlại những cổthụ cằncổi trong vườn chođúng giátrị đúngđắn của những câykiểng, khônghơnkhôngkém. Việcquantrọng là gầydựng những mầmnon mới. Cáicách đánhvần kiểu Việtnam chúngta học ngàyxưa tôi nghĩ khôngcòn thíchhợp, chúng làm đầuóc trẻ pháttriển theo mộtcách thấycây mà không thấy rừng, thiếu cáchnhìn trừutượng vào sựkiện và vấnđế.

Ðâylà một mặttrận vănhoá, đasố người thamdự dùcho ai có khiêmnhượng thếnào, họ cũnglà người hiểubiểt và có vănhoá, có suyngĩ và ýtưởng riêng, kểcả những địnhkiến cósẵn không dễgì mà thuyếtphục được. Người Việtnam chúngta, theo nhậnxét khônghẳn là của riêngtôi: trithức Việtnam mình thường chẳngcó ai phục ai, đặcđiểm chung là thiếuđoànkết, thủcựu, ngại và sợthayđổi, và không ít người mang đầuóc kìthị và hẹphòi. Nếu không thẳngtay đậptan những trởngại đó, ngườiViệt chúngta baogiờ cũng sẽ theođuôi ngườikhác và khôngbaogiờ có sángkiến, chấpnhận đổimới. Lịchsử bốnngànnăm ngườiViệt mình hãnhdiện đãđành, nhưng 60 năm của việcchínhthức đưa Quốcngữ vào việcthựchành thì cógì để đáng vênhmặt tựhào? 

CHÚNGTA CẦN CẢICÁCH, KỂCẢ CẢICÁCH MỌITHỨ, CÁINẦY LÀ TIỀNÐẾ CHO CÁIKHÁC.

Ngàyxưa, tôi tưởngtượng là những người đầutiên khi mới nghĩra cáchviết chữNôm, dựavào chữHán, chắc đã khốnđốn khôncùng với những taynhohọc ômkhưkhư những giátrị cũ, sợ cáimới, e nó sẽ làm maimột cáicũ là cái duynhất họ còn giữđược. Ðốivới tôi, cáigì mới, cáimà có người gọilà Tânhọc, chodù nếuphải bắtchước ngườikhác, nếu họ hay họ đúng thì cứ việc theo.

Còn việc anh cholà chúngtôi ảnhhưởng Tạyhọc quánhiếu, tôi nghĩlà anh chỉ nhậnxét trên mặt hìnhthức, nhìnkỹ, anh sẽ thấy dưới cái chiềusâu bêndưới, cáinền là Hán là Nôm.

Tôi rất tôntrộng ýkiến của anh và xin ghinhận những bìnhluận tíchcực của anh. Thựcsự bàiviết của tôi chỉlà một gợiý, chẳnglà một nghiêncứu hay luậnán gìcả, cóthể có cáiđúng và có cáisai. Cáchnhìn của anh về mộtsố vấnđề trong Việtngữ thựcra chắc không khácgì tôi mấy, cókhácchăng chỉlà mộtvài góccạnh quansát và nhìn vấnđề. Thídụ: anh chủtrương viếtnối những từkép HánViệt và những từkép Nôm -- nghĩalà những từ mà trướckia thếhệ chaông của chúngta viết với cái gạchnối - . Và anh xem từkép (từghép trong trườnghợp nầy khôngđúng) là những từ khi táchrờra tự những âmtiết táchrời sẽ khôngcòn mang ýnghĩa nguyênthuỷ. Tôi thì lại nhìn từkép và cả từghép thànhhình từ những kháiniệm -- những yếutố dùngđể tạotừ mới dùcho chúng có nghĩariêng nhưng trong một kếthợp mới nó mang một nộidung mới -- cùnglà một họ Nguyễn và tên Thuý kia, nhưng những côgái mang cùng tên đều chấpchứa nộidung khácnhau, và mỗi cô phảiđược đốixử bìnhđẳng nhưnhau.

Ðồngý với anh và đâylà một chuyệnnghiêmchỉnh, khi thihành thì chỉcó một cơquan quyềnlực kiểunhư Hànlâmviện ChữViệt mới đủ thẩmquyền vạchđịnh chínhsách cảicách tiếngViệt mới sẽ được thựchiện nhưthếnào. Bàiviết của tôi, của anh, hoặc của bấtcứai cũngchỉlà những ýkiến đónggóp màthôi. Nhưng ta khôngthể chỉ biết ngồiđợi làm xong một luậnán toànhảo rồi mới côngbố thì cólẽ quá chậm và quá muộn. Và chodù nghiêncứu và luậnán của chúngta có hoànhảo đimấy thì cũng cóngười nhìnthấy cáikhônghoànhảo trongđấy. Ởđây câunói "tri túc tiện túc, đãi túc, hàthời túc?" của Khổng Phu Tử chắc thíchhợp. Có ýkiến gì thì cứviệc lêntiếng. Có kẻ chẳngbiếtgì lại lên mặt dạy đời, mình dạigì mà cứ làmthinh chịu thiệtthòi?

Cảicách Việtngữ là côngtrình chung của mọingười, chẳngphải là của riêngai. Chỉcần chấpnhận cáitiềnđề là "cáchviết TiếngViệt hiệnđại cần cảicách" là đủ, là mọingười ai quantâm đến vấnđề là cóthể gópý, còn cảicách thếnào, làmsao để cảicách thì cáiđó hạhồiphângiải. Chắcchắn chúngta sẽ tìmra một giảipháp thíchhợp được đasốngười chấpnhận.  " Một cây làmchẳng nên non, ba cây chụmlại thành hònnúi cao."

Ngàynay mạnglưới thôngtin chophép ta làm chuyện nầy. Viết tớiđâu là cholên mạng tớiđó. Khôngthể lấycớ đợi làmnghiêncứu xemxét mọi khiácạnh của vấnđề rồi mới lêntiếng thì chậmquá. Nội chuyện anh bỏtiềnra insách, babốn tháng sau đứacon tinhthần của anh mới thànhhình, lúcđó vấnđề đã nguộilạnh, và lạicòn vấnđề ngườiViệt chúngta mấyai chịu bỏtiềnra để nghiêncứu ýkiến của một kẻ họ xemlà dướitay mình.  Chắc anh khôngtin cáilý là ngườiViệtmình chằngai chịu phục ai, ai cũng muốn làmcha làmchú làmthầy ngườikhác hết. Nói khôngnghe thì cảvúlấpmiệngem.

Thânchào.

dchph


BÀI 2

Kínhgởi Ông Ðáng:

Nay nhân có Ông Lê Bắc lại gópý, tôi cũng tiệnthể bànvề ýkiến của ông Bắc và bànthêm về mộtvài ýkiến của ông mà tôi đã bỏsót trong thư trước.

Trướchết về chuyện ông nêura cáchdùng từng từđơn cho phùhợp với quiluật của các thểloại thơ của Việtnam. Theo thiểný thì trong nghệthuật hoặc thica, tôi nghĩlà khôngcó vấnđề gì cả, ai thích viếtrời thì viết, còn ai thích viết dínhliền thì cũng khôngsao, đọclên vẫn đúng quiluật, tự bảnchất nó đasỗ từ vẫn đivớinhau thànhcặp. Ðây chỉlà hìnhthức, mình cũng chảnên buộcmình vào cáihìnhthức đó, nghĩalà từngchữ một phải ănkhớp vào cáikhuôn đãđược đúc sẵn. Ðồngý với ông là do ảnhhưởng của tiếngHán ngàyxưa, mỗi chữHán phươngthể mang một âmthanh và ýnghĩa riêng của nó mà chữViệt chúngta chịu ảnhhưởng rồi viếtthành chữrời một (Chữ Ðạihàn viếtthành từng nhóm.) Ðiềunầy rất rõràng mà lắm người cứ khưkhư bảo cái đó là quốchồnquốctuý, bỏ khôngđược.

Về chuyện quyước f- thành phi-, s- thành sự-... tôi đồngý với anh là nếu mình cảicách kiểunầy chẳngqua lại là một thứ quyước mới như ông nêura là quyước tốcký chẳnghạn. Tôi nêu những thídụ tửngtượng nầy ra chẳngqua là để minhhoạ ýtưởng cáitínhcách ngữtố của những yếutố đó, để phảnbác lại ýtưởng của mộtsố nhàngữhọc phươngTây cứ nhìn cáchviết của ta ngàynay rồi phán ngay một câu là tiếngViệt là tiếng "đơnlập" (isolated language -- với hàmý là mình chỉbiết ghép chữ lại vớinhau đê tạo từ và tạo câu, chứ khôngcó hìnhthức biếnthể. Và họ nóixỏ đấy vì với họ ngônngữ "đơnlập" la ngônngữ sơkhai.)

Về chuyện ông địnhnghĩa là tiếngViệt có tínhđaâmtiết là trong tiếngnói, còn về mặthìnhthức là nó đơnâmtiết vì mình viếtrờira. Thì cách địnhnghĩa của anh là một cách, vì khi ta bànluận vấnđề gì cũng cần thoảthuận về ýnghĩa những kháiniệm mà ta sẽ bànthảo tới. Chuyện nầy chẳngcógì mâuthuẩn với việc chấpnhận quanđiểm là tiếngViệt là một ngônngữ đâmtiết. (Ông Lê Bắc cũng mặcnhiên thừanhận tính đaâmtiết của tiếngViệt,  là tiếngViệt có những từ nên viết dínhliềnnahu, chỉ tại mình khôngbiết viết đúng và chưa xácđịnh đúng là chữ nào nên viếtdính lạivớinhau để biểuthị từ màthôi. Tôi cũng vậy.)

Còn cáikháiniệm "hoàâm" của ông nếu ông địnhnghĩa thếthì nó là nhưthế, chớ theo tôi biết thì trong ngôngữhọc ngườita xem những phântích như ông trìnhbày là "bánnguyênâm" w (u), j (i)...  w- và j- là mộtphần của của cáivần đisau. Cònchuyện ông bị chấtvấn về tínhchínhxác của lậpluận "khôngcó ngônngữ nào trênthếgiới ngàynay là ngônngữ đơnâmtiết cả." Ông đã bị cáinhãn "giáosư" ngườita hù rồi nên cứng miệng. Ðâucầngì (và chẳngai làm vậy cả) phải nghiêncứu hết tấtcả các tiếngnói trênthếgiới (trườnghợp thấycây và chẳng thấy rừng) mới cóthể đưara kếtluận đó! Trong tiếngnói loàingười như ngữâmhọc đã cho ta thấy thì miệngmồn ngườita chỉcó mộtsố cách phátâm về phụâm (P) d, f, h.... và mộtsố giớihạn về nguyênâm (N)  a, u, i... nếu ta kếthợp tấtcả những khảnăng như N, P+N, N+P, P+N+P, hoặc thêm PP và ÂÂ (chẳnghạn như kiểu -uy-, -uô-, -ươ- trong tiếngViệt) vào trong những kếthợp nầy để tạothành từvựng đơnâm thì tổngcộng một ngônngữ chỉ thuần có đơnâm thì từvựng của ngônngữ đó sẽ rất nghèonàn và thôsơ, và dântộc của xứ đó phảilà đangsống trên một hònđảo nàođó hoặc là nơi mà chưa có ngườingoài đặtchânđến, thì nó là một trườnghợp lệbiệt đểdànhcho các nhàngữhọc phươngTây mangra làm đồsưutập quíhiếm. Thêmvàođó, chỉvới nội sựdunhập những kháiniệm mới ngàynay của khoahọc vitính và thôngtin thì những chữ như internet, website, computer, database, forum, software, memory, megabytes... sẽ biến ngônngữ đó sang ngônngữ đaâmtiết mất rồi! 

Về chuyện Ông Lê Bắc bắtbẻ cáchviết trong câu "tri túc tiệnúc, đãi túc, hàthời túc?" thì đó chẳngqua là lỗi "typo" chínhtả, khi tôi cắtdán láthư trên để "post", khônghiểusao "tiện túc" nó thành "tiệnúc" và tôi bỏsót không bắt được khi đọclại.  Ðúngra thì chỉ có hai chữ "hà thời" là nên viết dínhlại, vì hai chữ nầy thường đicặp vớinhau để chỉ kháiniệm "baogiờ" (À, câu nầy tôi tin là của Khổng Tử, chứ khôngphải của Nguyễn Công Trứ. Các vị họcgiả HánNôm của Việthọc có ýkiến gìkhông?). Tiệnđây xin lạmbànthêm, trong tiếngViệt mình, nhiều châmngôn, thànhngữ, phươngngôn v.v... mang gốcHán, dùng lâu rồi mình cứ tưởng của riêngmình. Chẳnghạn như câu "Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" được một bác nóira, và bác đó là vịgiatrưởng trongnhà, nóiđâulàđúngđó, nên nó trởthành lờivàngthướcngọc, thếlà cảnhàta cứ khưchư bảo cái câu nầy là do bác nóira, khôngthểnào có gốcHán được!) Và dĩnhiên, trong cáchviết của tôi, nếu ai bớirơmtìmkim thì sẽ còn bắt được những lỗi tươngtự, nhưng dphần là lỗi chínhtả, thídụ như tôi viết "thủkiệu" chẳnghạn. Xin hiểucho tôi cũng đang tậptành viếtvăn thửnghiệm, cũng bănkhoăn có nên vết dínhliền hết những kháiniệm đa âmtiết không. Ông có quitắc viết của ông, thì dĩnhiên ông viết đúnghơn nếu cái quitắc ông đưara đaphần  là dựavào cáchviết gạchnối trướcđây.

Ngàynay những kháiniệm mới xuấthiện và trởthành phổbiển trong nhiều lãnhvực, nhấtlà trong ngànhtinhọc, và được sửdụng không ít, thídụ như: trangnhà, trangmạng, vitính, khodữliệu, dĩacứng, v.v... chúng là những kháiniệm mới chúngta nên nênxem chúng là từghép, dù cắt chúng ra thành từng âmtiết nhỏhơn, bảnthân chúng đã hàmchứa một nộidung mới.  Khi ápdụng vào cáchviết dínhliền mới, ta khôngnên ngầnngại viếtsít vàonhau. Còn cái câu "tri túc" kháxưa, nhiều kháiniệm đốivới tiếngHán hiệnđại nên đượcxemlà từghép thì khi bănkhoăn không biết nên viết nhuthếnào chođúng thì cũng chẳngcó gìlạ -- nhấtlà tôi lại chủtrương nên viết dínhliền những thànhngữ, thídụ như "tiềnrừngbạcbể", 'hằhàsasố" v.v... 

Ngaycả trong tiếngAnh những từngữ mới như " webpage, website, homepage, frontpage, harddisk, databank... " vì chúng mớimẻ nên  vẫncòn cóngười viếtrời thành "home page, web site...... Tôi tiênđoán là khuynhhướng viết dínhliền lại vớinhau trong tiếngAnh sẽ thắngthế vì khuynhhướng viếtliền những từghép (compound words) rất mạnh trong tiếngAnh, khôngnói thì ai cũngrõ, phảnảnh đầuóc kháiquát hoá rấtcao của người phươngTây. Có người nói chữViệt ta viết nhưvậy 60 chục nămnay, từ NamchíBắc, có ai hiểulầm ai đâu. Dĩnhiên khi ta vào rừng thì ta thấy cây, cây nầy khác với cây kia, kểcả vào rừng tre rừng trúc. Ta nhậndiện rõ từng câytre, phảnảnh rõràng trong tâmthức thếhệ sang Mỹ đầutiên của chúngta nhớ khómtre đầulàng khácvới khómtre ngoàingõ. Thếhệ conem Vệtnam lớnlên ở Mỹ thutnhận nền giáodục Tâyphương thì tre nào cũng là tre, là "bamboo", chứ khôngphảilà do "bam" và "boo" tạothành, tómlại chúng thấy đólà một đámrừng, khôngphải là từng cây một. Chữ viếtliền, cứ chịukhó suynghĩ xahơn mộtchút, sẽ giúpcho đầuóc conem mình suytư mộtcách trừutượng hơn, nhanhhơn và hiệuquả hơn, và cái toànthể khôngnhấtthiết là tổngsố của những cáilẻ. Khôngphải ta bắtchước cáchviết "therefore", "nonetheless", "although" ... của chữAnh màlà ta bắtchước cái đầuóc trừutượnghoá và tưduy của ngườiTâyphương, vì đấylà nềntảng của tưduy và của khoahọc, và nếuthêm vào đấy ta triểnkhai phổthônghoá sựhiểubiết về HánNôm, cáicách viếttời của từng chữkhối phươnghtể vẫn cònđấy cho ta nângniu đánhbóng, làmthơ làmphú, mặctình mà mangra từngchữ tánhươutánvượn.

Còn chuyện Ông Lê Bắc nóichuyện tiếngAnh ngàynay nhiều người viết sai vănphạm thì tôi khôngdám lạmbàn. Thằng con nhỏ sáu tuổi của tôi ưa nói "he don't, she don't" mà tôi chẳngdám sửa. Vănphạm chẳngqua là những quyluật ngườita rútra từ thựcthể tiếngnói đã thànhhình. Ngàyxưa, tôi nhớ khi tôi mới học tiếngAnh ở Việnam, baogiờ cũng học vănphạm trước. Cáilềlối cổhủ nầy đã làmquèquặc tiếngAnh của tôi. Thế mới thấy những "người bình dân" thếmà hay, nóiđược câu "tri túc" rồi theosauđó có nói thêm "mẹ cha nó", "đồ dịch vật", "con mẻ", "thằng cha", "cố nội" chẳng phải bănkhoăn gì tính đơn hay đaâmtiết của lời họ nói. Họ nói và họ cólẽ họ cũng chẳng cần viết, cái đámđông quầnchúng đó thuộcloại nầy khôngđángngại trong cuộcvậnđộng cảicách chữViệt chútnàohết. Chỉ sợ là sợ cáiđám tríthức nửamùa, tưởng mình là cáilỗrốn của vũtrụ, cáigì không hợpý mình là sai, sẽ lợidụng đámđông quầnchúng đó đưa họ ra hù những người yếubóngvía. Cái danhnghĩa đạiđasố quầnchúng đãđược nhànước Việtnam mangra sửdụng từlâu, nhưng đốivới những người đang nắmquyềnlực thì cái ýkiến của quầnchúng đó cónghĩagìđâu. Nhữnggì nhànước cho là đúng thì họ làm.

Sỡdĩ tôi dàidòng về chuyện đámđông, vì quảđúng theo lời Ông Lê Bắc, cái khó là sự chốngđống của đámđông. Nhưng chúngta phải nhìnthấy rằng cái vaitrò của ngườilàmvănhoá là chỉ cho ngườita thấy conđườngđi, vạchra đườngđinướcbước để đạtđến mụcđích chung có lợi cho nướcnhà, thì nếu thờivận đến và maymắn có ngườitríthức nàođó nhậnđịnh rõ được vấnđề cấpbách trong việc cảicách cáchviết tiếngViệt nầy lên nắm chínhquyền ở Việtnam và ápdụng sựcảicách cáchviết tiếngViệt mới, thì dùcho những có bị ai tặng cho ba cái nón cối thì có theo "chủnghĩa cảicách chữViệt" thì cũng hảdạ. Ngàyxưa khi Tần Thỉ-hoàng chấpnhận sự cảicách văntự do Lý Tư đưara và đã thựchiện cảitổ chữHán từ hìnhthức chữTriện sang kiểu chữviết vẫncòn tồntại đến bâygiờ, cóbiếtbao sĩphu thờibấygiờ vì chốngđối đã rụngđầu. Thếmàhay, nếu không làm vậy, giờđây nước Tàu cólẽ đã bị chiabaxẻbảy chẳng khácgì những nước Âuchâu bâygiờ. Trong trườnghợp nói cảicách chữviết khóthựchiện thì thựcsự chẳngphải là khó. Có ýthức và quyềnlực là thựchiện được.

Cái quốchồn quốctuý là do ta tạora, của ngườita mà lấydùng lâungày rồi thành của riêngmình nếu nó hay thì giữ, thì cái quốchồn quốctuý đó đángđược gìngiữ vậy. Quốcngữ phảinóilà chỉmới còn giaiđoạn đangpháttriển, chưađược ổncố như tiếngAnh, và vì tuổi nó già hơn Quốcngữ ta, nói mộtđàng viết mộtnẻo, khó cóthể cảicách được, nhưng chữViệt vẫn là thứchữ đangpháttriển, và nếu ta cứkhưkhư ômlấy cáisai (phủnhận tínhđaâmtiết của nó) mà làm quốctuý thì những câynon tươnglai lại cứ núp dưới những bóngcây đạithụ, thì cũng sống nhưng rõràng sống vậtvờ khôngpháttriển. Cứgiữ cáicách tưduy hiệntại củata, thứgì cũng cụthếhoá, có chết conmèođen nhàai đâu mà bàn với cải, sửa với đổi, cải với cách?  Hồi cuối thếkỷ 19 nếu ngườiNhật cũng nghĩ nhưvậy thì nướcNhật ngàynay đã khác  --  xét về mặt ngônngữ, làmgì chúngta trong tiếngViệt có những từ như cộnghoà, dânchủ, tíchcực, tiêucực, chínhphủ... 

Cáilợiđiểm Latinhoá quárõrệt nếu chúngta không triệtđể triểnkhai nhữngưuđiểm tíchcực của thứ chữviết nầy thì thậtlà uổng. Trongkhiđó, chữAnh là thứ văntự đã ổncố, đã đạtđến tính pháttriển cao, là ngônngữ kỹthuật tinhọc duynhất trêntoàncầu, không học tiếngAnh là sẽ bị thiệtthòi, thànhthử ai cũng đuanhau mà học. Vaitrò của tiếngViệt mình làmsao sosánhđược với thứ ngônngữ nầy. Khôngphải nói vậy là do mặccảm tựti hay duyTâyhọc, màlà để nhấnmạnh đến những khuyếtđiểm của chữviết hiệntại của nướcnhà mà nhanhchóng sửađổi. Cólẽ nhânlúc ngườita còn chưa đểý tới ta maumau cảicách theo chiềuhướng đúng thì vềsau có trởthành mộtxứ Nhậtbản thứhai, ta sẽ lạiđược ngườita chiêmngưỡng cáihay cáiđúng đó. ChữHán chữNhật dù khómấy thì vẫncó người học. Ðây chẳngphải là lúc chúngta nên tạo điềukiện để cáchviết mới của chúngta pháttriển theo một chiềuhướng khoahọc và hợplý haysao? Thờicơ đãđến, liênmạng toàncầu là cáivũkhí vạnnăng sẽ làmthayđổi tấtcả. Dùmuốndùkhông thì đólà conđường phải đi. 

Trântrọng.

dchph


------------------------------------

x Xx

Gópý vềviệc thốngnhất chínhtả và cảicách quốcngữ

By Trịnh Nhật

1. Taisao can thongnhat chinh ta? Caicach quocngu?

Congtrinh chuyenta, thietlap hethong vantu cho tiengViet cua cac nha-nguamhoc va amvihoc ngay tu thuobandau chua duoc hoanchinh. Lizo taisao?

a. phuongngu chonlua (nguam, amvi). Neu caicach thi lay phuongngu nao lam chuanmuc? Ma muon zunghoa, thi phai zunghoa nhuthenao?

b. cautruc (mothuc) amtiet (bienbiet, mota cang gianzi, zehieu chungnao tot chungdo).

c. zauthanhdieu cho chuviet (bozau vao nguyenam nao thi hopli hon?)


2. Zuavao binhzien nao de caicach?

a. Phonological plane: nguam, amvi, thanhdieu.

b. Semantic plane (ngu-i): tiengViet khongphai la ngonngu donamtiet.

c. Orthographical plane (chinhta): gachnoi, chu viethoa (ten diazanh, ten nguoi).


3. Co loiich thuctien gi khi caicach?

a. viet dienthu: mautu (chucai), zauthanhdieu, chu zinhlien, chu gachnoi.

b. sosanh tienloi va battienloi cua 'software' VPS zung de viet va doc dienthu.

c. optical scanning va optical character recognition (OCR): zukien ve tu thucsu xuathien (actually occurring words) trong ngonngu--canthiet cho viec zichthuat, lam vanpham, lam tudien [dacbiet la loai tudien kethopngu (collocational dictionary) vi co the thietlap duoc 'concordances'], nghiencuu vanthe (writing style) cua vanthisi zuatren zukien duoc 'stored' va 'retrieved'.


4. Chuongngai:

a. Khongco hanlamvien ngonngu co thamquyen tai Vietnam va tren toan thegioi khuyencao thihanh denghi caicach chu quocngu, ma chozu co dinua thi cung khongzegi bao zanchung theoduoc.

b. Thoiquen la bantinh thuhai (second nature) cua connguoi, khongzegi suadoi. Quandiem chuyenmon, hopli cua cac nhangonnguhoc khongconghia la zanchung, banzan thienha, hay cac nhavan, nhabao, kigia se theo ngay.


5. Chutruong:

a. Nguoi biet phai gionglen tiengnoi, bao nguoi khongbiet. Bietdau trongvong 50 hay 100 nam sau se co thaydoi, nhu nguoita da thay co thaydoi trong maychuc nam qua (i ngan/y dai, gachnoi/khong gachnoi ...)?

b. Sansang chapnhan ikien khacbiet, khong so vande chupmu, boivi: (1) chupmu la chienthuat loithoi, thiencan (myopic) dacbiet la ve vande ngonngu; (2) moinguoi zung tren mot quandiem va co hieubiet khac nhau, nen 'motto' cua chungta la: 'we agree to disagree', 'everybody is entitled to his/her own opinion'.


Trinh Nhat
Thang 4, 2000

--------------------------------------------------


Bìnhluận về "Sửađổi Cáchviết TiếngViệt"  

Author: Lê Bắc 

(xxx.pacbell.net)

Date:   Saturday 03-09-02 23:27 (PST)


>>câunói "tri túc tiệntúc, đãi túc, hàthời túc?" của Khổng Phu Tử

Trước giờ cứ tưởng câu này của Nguyễn Công Trứ chứ, té ra không phải à??

Đọc tiếng Việt còn chưa biết được chữ nào dính, chữ nào không, nay phang thêm một câu gốc Hán nữa, thì làm sao mà "người bình dân" vốn lúc bình thường hay nói câu này lắm để tự an ủi nhau, nhưng nếu bắt viết "dính" ra thì chắc "bí", tại sao "tiệntúc", "hàthời" thì dính, mà "tri túc", "đãi túc" thì không?

Thấy trường Việt Ngữ Văn Lang ở San Jose mới có phân biệt rõ khi nào dùng i & Y, mà đã bị hội phụ huynh gây chuyện rồi, người thì rút con đi học chỗ khác, người thì lên đài, đăng báo "chụp" cho vài 3 cái nón cối, người thì tính mang ra tòa kiện về tội phá hoại văn hóa, v.v.... vậy mới đủ biết thuyết phục được đám đông khó lắm thay, nhiều khi đám đông mới là quyết định con đường văn hóa, chứ không phải các nhà văn hóa . Vì lẽ gì mà tiếng Mỹ lộn xộn chết cha luôn, khi thì cùng chữ nhưng lúc đọc thế này, lúc đọc thế khác, rồi tiếng slang tầm bậy tầm bạ càng ngày càng nhiều, văn phạm thì xài trật lất (ví dụ như double negative,v.v...) thế mà càng ngày thiên hạ trên khắp thế giới càng đua nhau học tiếng Mỹ .... sao lạ rứa ?

 


Author: LêBắc 
Date:   Sunday 03-10-02 21:26 (PST)

Sáng nay ra trường, tôi có nêu vấn đề "viết dính" này với một số quý vị phụ huynh học sinh. Điều đáng ngạc nhiên là vấn đề này không lạ với vài vị vốn khi xưa là học trò của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng đã từng in cuốn "Câycỏ Việtnam" dày cộm với lối "viết dính" như đang bàn ở đây

Qua vài tiếng đồng hồ thảo luận, tôi nhận thấy rằng chẵng có ai ủng hộ phương pháp này cả, có vị còn cho là "mất thì giờ" nữa, vì vậy cuối cùng tôi đã cho họ cái website của ông PCDong, để khi nào họ có "thì giờ" thì họ sẽ vào xem phương pháp của ông. Chỉ sợ ông không nhận họ thôi vì thấy ông có viết ở trên là: "Trangnhà vny2k là "vùngbắn tựdo", không nhấtthiết phải theo một ýtưởng hay đềnghị nào, mỗingười đềucó quyền nêura quanđiểm của mình, miễnlà chấpnhận sựcảicách". Vậy là nếu không chấpnhận sựcảicách thì đừng có vô hả ông?

Nói chuyện một lúc lâu với quý vị phụ huynh học sinh, xong thì ngẫm nghĩ một chút, cũng nhận ra là "Dùmuốndùkhông" thì cũng khó mà vận động được người khác theo ý của ông.

Thôi, xin chúc ông may mắn với cáivũkhí vạnnăng trong công việc vận động chữ viết kiểu mới nhé. Xin cáo biệt ..... hẹn tái ngộ ... (khoảng 18 năm nữa, khi trở lại xem kết quả  )

 


Author: lang bang 
(203.192.36.---)
Date:   Sunday 03-10-02 15:52 (PST)

Ông PCDong đã đọc bài bình luận về "Cải cách tiếng Việt" của Đặc Cán Mai (Sunday 03-03-02 06:55) và trả lời có đoạn như sau: Tuynhiên, mới vôđầu là ông đã hiểusailạc ýtôi. Rất rõràng là tôi không đềnghị cáchviết nhưthếnày: \"viếtdínhchữquốcngữ-
liềnvớinhauthànhmột- chùmnhưthếnày .. \" như ông đã nêura.

Kết luận: Ông PCDong có thể rất uyên bác nhưng chắc chắn hàm lượng hài hước trong óc ông ta rất thấp.

Góp ý: Con nhà PCDong nên học thật kỹ cách đọc tiếng Việt trước khi (muốn) làm nhà cách mạng. (Và cũng nên học lại chính tả để biết cách bỏ dấu hỏi ngã.)

lang bang


Trảlời của dchph

Kínhgởi ông Lang Bang:

Cảmơn ông đã cho tôi biết chuyện viếtsaichínhtả hỏingã trong các bàiviết của tôi.
Cũng giốngnhư ông, tôi ưa đểý chuyện nhỏnhặt, chonên tôi đã bỏra mấyngàytrời để đọclại những bàiviết của tôi nhưng tìm hoài chỉ thấy có những chỗ có lỗi do "typos" (đánhmáy sai). Rồi tôi cũng có nhờ ngườibạn dânBắckỳ đọcgiùm, cũng tìm chẳngra. Tôi là ngườiTrung khi viết khôngítthìnhiều chắc cũng bị ảnhhưởng khẩuâm của mình. Ông là ngườiNamkỳ, chắc ông có tiêuchuẩn chínhtả riêng của ông? Ông đã có công tìmtòi thấy những lỗichínhtả đó, xin ông vuilòng chỉgiáo vạchra, nóicósáchmáchcóchứng theođúng phongcách của ngườicóhọc, để tôi sửachữa kẻo concháu của ông vềsau đọcphải rồilại nhậptâm xong tiếptục viếtsai thìthậtlà có tội.

Xin đatạ trước.


Author: Nguyễn thới Vinh
Date:   Tuesday 03-12-02 14:13 (PST)

Kính thưa quí vị,

Con ngồi đây đọc một hồi rồi mà vẫn chưa đọc xong những bài viết trong cái topic này. Con thật hoan hỉ khi biết được là có những học giả cũng đang tìm phương cách để cải cách ngôn ngữ ta. Tuy con chỉ biết chữ quốc ngữ này mà thôi, nhưng con cũng không thiết tha gì với nó. Và dĩ nhiên là con không ưa thích gì việc dùng chữ Hán hay chữ Nôm. Mọng ước của con là thấy được ngày nào ta không còn phải dùng ba loại chữ viết trên.

Dẫu sao chữ quốc ngữ là loại chữ được thông dụng nhất. Việc cải cách nó bây giờ, sẽ dần đà đưa đến những công trình cải tiến sau. Con nhận xét rằng ngôn ngữ ta rất giàu về âm ngưởng, nếu bỏ dấu đi thì sẽ phản lại tính cách ấy. Chẳng hạn như chỉ viết chữ "ma" mà không bỏ dấu thì không được tiện cho lắm. Câu "Con thay ma," sẽ biến thành: "Còn thây ma." "Còn thây mà." "Còn thấy mà." "Còn thấy mả." "Còn thấy mạ." "Con thấy ma..” "Con thấy má." Con thấy mà." "Con thấy mả." "Con thảy mạ..."

Như GS Lê Bắc đã nói, sự cải cách cũng cần thiên về đại chúng. Nếu sự thay đổi mà dể viết, dể đọc, dể học và dể hiểu hơn chữ viết đương thời thì sẽ được quần chúng chấp nhận, bằng không, nếu dân chúng không chấp nhận thì công việc của quí vị sẽ bị tức tử vào lúc đầu. Có nhiều học giả nghiên cứu về những cái gì đơn thuần của dân tộc ta và làm nó thật phong phú khi chúng ta nhìn từ một khía cạnh khác. Trong "tiếng" Việt (nôm), có rất nhiều chữ mà cái âm của nó khi ta đọc ra cũng đủ để ta biết về ý nghĩa của nó. Những chữ viết theo chữ La tinh chỉ cho ta biết cách đọc, ngược lại, những chữ viết như Tàu, Nhật, Arab... thì thường cho người đọc biết về ý nghĩa của nó. Nếu có bật nào có thể cấu tạo một loại chữ viết mới mà liên kết được hay thể tính kia, thì thật là quí báo. Nghĩ đến việc, "nhìn" một chữ thôi mà đã biết cách đọc lẩn ý nghĩa của nó thì ngôn ngữ ấy hoàn mỹ dường bao; không cần phải tốn thì gian học đọc, học viết, học nghĩa.

Con chỉ có cái đóng góp nho nhỏ ấy thôi, nếu có vị nào thấy nó hữu dụng thì con thật cảm kích. Một ngôn ngữ cũng có cái nguồn sống của nó, bổn phận của người nói tiếng Việt của ta là làm sao nó có thể sống mạnh mẻ, mà không bị hà hiếp. Như quí vị thấy, ngôn ngữ của ta, cả 70% là chữ Hán Việt. Chỉ còn 30% còn lại là có cái hồn thiêng của dân tộc. Mong là có ngày nào dân Việt ta có thể cưởi cái lớp áo nô lệ một nghìn năm ấy ra. Nhưng ngày nay, thiếu niên thì thích nhạc Tàu, cao niên thì thích văn Tàu, trung niên và thanh niên thì thích phim Tàu, cái nền đô hộ này là do chính người mình tự đặc lên đầu lên cổ mình vậy. Tiên trách kỷ, hậu mới trách nhân phải không quí vị?

Mong quí quị tiếp tục công việc này.

Thành,

Nguyễn Thới Vinh


Author: Tran 
Date:   Tuesday 03-12-02 17:22 (PST)

Nguyễn Thới Vinh

Trong các đề nghị cải cách này coi bộ cũng có nhiều xu hướng. Có người quá yêu chữ quốc ngữ mà cải cách. Có người không yêu quốc ngữ mà cải cách. Người yêu thì chắc phải nuông chiều các mẹo luật sẳn có. Người không yêu thì chắc sự đòi hỏi lại đi quá xa với thói quen, không phù hợp với quần chúng. Nếu giao hòa được hai xu hướng cải cách trên ắt sẽ có mẫu số chung để mà bàn bạc.

Nguyễn Thái Vinh có xu hướng đặc biệt nhất là không yêu quốc ngữ, mà cũng không chuộng Hán-Nôm kể cũng lạ. Tuồng cảm xúc này do tự ái dân tộc mà phát sinh nhưng không ít thì nhiều cũng có cái ảnh hưởng của học phái Âu Ba La của Trần Trọng Kim chống Tàu thái quá. Mình cũng ghét chệt Đại Lục lấn đất nhưng hai chuyện là hai không lùa Hán Nôm về bên chúng nó. Văn hóa là giao lưu tứ hải chứ không cần tự ti cục bộ - không hợp văn minh nhân loại. Sách của Trần Trọng Kim hướng dẫn sai lạc khái niệm tranh bá đồ vương của lịch đại vương triều với Tây thực dân vô một. Đó cũng chính thủ đoạn của Tây để cho móng vuốt của ta cứ chỉa về Tàu mà quên đi kẻ thù bóc lột trước mắt. Đọc sách sử lược của họ Trần phải thấy thâm ý vô hậu do Tây nó vung tiền cho mà in ấn. Khổ nổi, sĩ phu nước ta không đọc cổ thư, lấy sách họ Trần làm khuôn thước. Có lẽ Nguyễn Thái Vinh cũng ở trong số này.

Nhân thấy cứ nhắc hoài và hậm hực về nhạc Tàu, phim Tàu. Thiệt ra nhạc Tàu phim bộ nó được công nghiệp hóa từ thập niên 70, 80. Nói là nhạc Tàu nhưng thiệt ra do nhạc sĩ Nhật hết. Hồng Kông mua bản quyền chứ Hồng Kông không công nghiệp hóa được kỷ nghệ âm nhạc như Mỹ như Nhật. Các bài "Uyên ương hồ điệp mộng" mà Như Quỳnh chuyển thành "Người Tình Mùa Đông" thì ra nhạc Nhật. Khi nhu cầu thị hiếu của Việt Nam tăng vọt thì ta qua Nhật học hỏi cách thức cộng nghiệp hóa âm nhạc và mua bản quyền thì thành nhu cầu của ta thôi. Có chi mà bất mãn chuyện này cho nhọc. Mấy trò chơi điện tử về truyện Tam Quốc thì Nhật Bản làm hay hơn cả.

Thôi thì nói đi thì nói lạị miềng chẳng dấu chi miềng theo phái Phù Nam Phản Ngữ, còn đa phần thì là Phù Ngữ Phản Nam. Còn Nguyễn Thái Vinh, tư tưởng này, tưởng là dân tộc tính nhưng xét kỷ cũng là muốn đứt mạch cội nguồn hợp ý chủ trương Tây thời trước. Nếu không chánh niệm định hướng, Phản Nam Phản Ngữ ấy chính là sản phẩm phụ mà thôi .

Miềng chẳng cực đoan chi, tại mê chữ tượng hình thấy văn hóa nước mình có vốn đó lại đem đi đổ uổng.

Ấy chết ngang đây, xin đính chính đôi điều mấy chữ phù phản trên, viết làm văn cảnh hài hước chứ đừng vạch lông tìm vết rồi chê bai. Phù = Thích, Phản = ngược với phù (không thích). Nam = Nôm, Ngữ = Quốc Ngữ. Xin mấy nhà Quốc Ngữ Học nhẹ tay.

--------------------------------------------------------


Lại góp ý đôi điều

Author: Nguyễn Phước Đáng

Date:   Monday 03-11-02 16:57 (PST)

Tôi đọc hết tất cả các bài viết đối đáp qua lại về chuyện viết dính liền chữ Việt, trong đó có bài “Góp Ý Đôi Điều” của tôi (Tôi tên Nguyễn Phước Đáng chứ không phải Nguyễn Quý Đáng). Tôi định rút êm, vì cảm thấy dường như mình không đủ sức tham gia, bởi những gì tôi đọc thấy biểu lộ cho mọi người biết những tay bàn bạc, phê phán vụ nầy in như là những người tài cao học rộng không hà, và là những tay gây gổ bậm trợn, những tay chỉ thấy mình đúng chứ không còn ai đúng nữa. Tôi nghĩ không khéo rồi mình cũng lây bệnh. Thôi chạy ra khỏi chốn nầy đi, lâu lâu ghé mắt xem qua cho biết, coi những nhà trí thức cao siêu đó đi đến đâu thôi. Có gì học hỏi được thì âm thầm học hỏi, xớ rớ đứng gần coi chừng hoạ lây (Ông lang bang phang ông chủ xướng viết dính liền “học cho xong chính tả hỏi ngã rồi hẳn làm cách mạng” Ông Trần phang lại “người nhỏ mọn, chuyện lụn vụn hỏi ngã mà moi ra lỗi phải...” Cứ như vậy, sẽ có người đối đáp lại “Chuyện hỏi ngã là vụn vặt sao? Nó phân biệt chính tả, nghĩa là phân biệt đúng sai mà không cần quan tâm đến sao?” Và cái đà “cãi lộn” đó sẽ cứ to lên mãi, đưa đến sự chia rẽ mỗi ngày một lớn thêm.

Hôm nay hay tin ông Lê Bắc chào “bái bai” hẹn 18 năm sau quay lại coi sự thể ra sao rồi mới có cơ dự lại. 18 năm sau, chắc tôi không còn để mà biết xem ông Lê Bắc có trở lại không. Ông còn đủ xí quách chờ đợi 18 năm nữa sao ông Lê Bắc? (tôi nghĩ tuổi ông cũng xấp xỉ tuổi tôi nên mới hỏi câu đó)

Tôi chưa dám chào giả biệt, vì tôi vốn là dân tài tử, hứng đâu viết đó, lỡ giả biệt rồi, rủi có hứng bất tử làm sao “góp ý đôi điều được”

Đọc ông dchph thấy ông tiếc hùi hụi chuyện ông Mao Trạch Đông bỏ mất cơ hội bằng vàng để làm cuộc cách mạng ngôn ngữ đaâmtiết cho Trung Quốc. Cơ hội bằng vàng đó là gì? Chắc ông dchph coi việc độc đảng, độc tôn, độc quyền, cưỡng bức là cơ hội bằng vàng? Vì thuở đó Mao Trạch Đông có trong tay những thứ đó, giống như Tần Thuỷ Hoàng. Rồi lại đọc thấy ông dchph và một số người khác đoan quyết rằng việc sửa đổi ngôn ngữ không khó, chỉ cần có quyền (hàm ý nói quyền độc tài) là làm được. Rồi bài gần đây nhứt, ông lại mơ mộng, ao ước, mong đợi có một người vốn là một nhà thức thấu hiểu cái lợi ích to bằng trời của thứ ngôn ngữ đa âm tiết như ông, may đâu vài năm nữa chiếm được quyền cai trị đất nước. Ông đó sẽ nghe ông mà tạo dựng lại cái cơ hội bằng vàng mà Mao Trạch Đông đã đánh mất để làm cuộc cuộc cách mạng viết dính liền chữ Việt. Ông có nói đến chuyện cải cách ngôn ngữ sắc máu của Tần Thuỷ Hoàng đốt sách, chôn sống nhà Nho: Ai không tuân hành, chống lại cải cách thì bị kết án, bị chém đầu. Ông phê “Thế mà hay” với lòng khâm phục, muốn noi gương. Tôi đọc thấy mà rùng mình. Than ơi! Cũng nhân danh cái lợi ích cho nhân dân, mà miền Bắc tiến hành Cải Cách Ruộng Đất. Bây giờ mọi người dân đều biết tai hoạ cải cách đó to lớn biết bao giờ nguôi! Cuộc cải cách ngôn ngữ lại đang đòi hỏi đi theo con đường đó, con đường “cơ hội bằng vàng” đó. Đúng rồi! Phải nhanh lên! Cơ hội đó sắp trôi qua.

Tôi có đề nghị ông và nhóm của ông nên soạn thảo đâu ra đó, tìm kiếm cho ra cái qui tắc chấp nhận được rồi phổ biến rộng rãi, sau đó chờ đất nước có hàn lâm viện, trình lên cho cơ quan có thẩm quyền cứu xét... Nhưng ông không bằng lòng, coi đó là tiến trình chậm như rùa. Ông muốn mọi người phải viết dính liền trong vòng 18 năm nữa, hay sớm hơn, 3 năm nữa thôi. Chừng như ông muốn nói “ai quay ra viết dính liền ngay bây giờ mới là người thức thời, mới tiến bộ, mới biết thương nước thương nòi...”

Chỉ viết dính liền những từ kép, từ ghép mà xưa kia viết với dấu gạch nối cũng chưa tiến bộ, chưa..., chưa gì cả, phải viết khôngbaogiờ, đichung, điriêng, bỏthìgiờ, trongkhiđó, maikiamốtnọ, dốtđặccánmai, chỉmớilà, ngaytạiđây, màbâygiờ, ngoàiýmuốn,... phải biết chữ dùng để tạo ra ý niệm chứ không phải chữ dùng để ghi lại tiếng nói... mới là người tiến bộ. Một số bài sau nầy ông dchph viết “từ dâmtiết”, không biết ông có coi là lỗi do đánh máy, do ấn công không hay đó là cách viết đi thẳng vào ý niệm giống như viết this, văns, flý, fquânsự, người đọc sẽ đi thẳng vào ý niệm thi sĩ, văn sĩ, phi lý, phi quân sự. Cần ý niệm nhanh chứ không cần lời đầy đủ, chữ viết đầy đủ.

Tôi không bỏ cuộc để chờ 18 năm sau xem sao, như ông Lê Bắc. Nhưng tôi cũng nghỉ ngơi, chờ xem chừng nào mình có hứng lại. Tôi đang lo lắng rồi mọi người có bỏ đi như ông Lê Bắc không, vì chính ông dchph cũng thừa nhận, ông không có khả năng, không có duyên thuyết phục mọi người. Tôi không biết ông có cái gì khi bày ra vụ nầy. Dĩ nhiên, tôi biết ông viết văn có bài đăng báo từ hồi mới 15 tuổi, biết ông có 25 năm học Hán Nôm để từ chỗ không biết gì hết, mà bây giờ đọc được gia phả mấy trăm năm dòng họ nhà mình. Dòng họ có được cái gia phả mấy trăm năm, quả là một dòng họ lẫy lừng vậy. Hèn gì ông Trần nào đó lúc đầu không biết dchph là ai gọi xách mé tên nầy tên kia, chừng biết ra dchph là PCĐồng viết văn lúc 15 tuổi, có gia phả mấy trăm năm, nên vội vã xuống ngựa, xuống xe đổi giọng.

Tôi đề nghị ông Lê Bắc đừng ngán ngẩm, đừng phiền não. 18 năm nữa, lâu quá chắc tôi đợi không nổi.

San Jose, 11- 3- 2002

Nguyễn Phước Đáng



Author: Tran 
Date:   Monday 03-11-02 18:16 (PST)

Ông Nguyễn Phước Đáng,

Như ông biết đó, tôi thì cũng chẳng đậm đà chi với chữ quốc ngữ từ đầu. Nhân thấy thiên hạ muốn thay đổi thì tôi bồi thêm. Tôi không yêu chữ quốc ngữ lắm nên có ai làm chi thay đổi cho nó hợp lý hơn thì tôi ủng hộ. Tôi cũng chẳng phải phái năng xuống ngựa lên xe gì cả, lúc đầu tôi bất đồng ý với ông Đồng vì có nhiều sự chủ quan nên tôi nói muốn đổi thì đổi nhưng đừng quá tham lam mà dẫn nhập vô đề tài văn hóa, chính trị vv. Trước sau cũng chỉ có vậy. Vì tình tự với những quan điểm giống nhau về nguồn gốc chủng tộc, ngữ hệ nên tôi cảm thấy thất lễ với người cũng đến trên 70% tri âm. Tính tôi thẳng, sau đó thấy thiên hạ có người tấn công vô ông Đồng sao mà nhỏ nhặt mà không hướng vô cái đại đồng phía sau là tiếng Việt (cách viết) nên cải cách nhiều thứ. Còn đem trí tuệ hột é ra mà chỉ dòm vô cái tiểu dị thì cải nhau là phải rồi.

Tôi đọc bài của ông thấy nhiều quan điểm rất hợp lý với tôi, có thể hợp lý nhiều hơn ông Đồng nhưng sự khác biệt giữa hai người là chi tiết. Thì ta cứ lấy cái giống nhau to lớn mà tìm nhau, hơi sức đâu mà màng tới chuyện chỏ mỏ của các giới nặc danh trong này. Tôi cũng cao hứng như ông vậy! nhưng tôi có agenda riêng, lắm khi Lý giám thị truống bài tôi xuống, tôi cũng chẳng bận lòng làm chi .

Văn đàn Việt văn xưa nay vốn hổn, nói chuyện như ri là hay lắm rồi chứ cứ cao độ tán dương nhau thì hỏng. Ông đừng bỏ đi mà tôi cũng chẳng bỏ đi. Nhớ thời phong ba trên một diễn đàn khác về đề tài chữ Nôm. Các phái phù Tây phản Nôm vo ve ong ỏng tưởng ngon lành. Dựa hơi cha cố Tây truyền đạo khai sáng văn minh cho dân Việt. Tôi mới nực lòng tìm hiểu cái danh Trương Vĩnh Ký mà phái này rất tự hào tôn làm học tổ. Tôi bảo là đại Việt gian đấy! Chúng nó sửng sốt nhưng lý lẽ, bằng chứng bao giờ cũng thắng. Sau đó tôi cũng chinh phục nhân tâm của bao nhiêu kẻ trung dung.

Còn chuyện thực hiện hay không chưa luận vì tuỳ thiên thời địa lợi nhân hoà. Làm người Việt Nam ta thì cứ thích phù thịnh. Cứ phù thịnh là chắc ăn.

Có một post nào đó, tôi có nói, chữ quốc ngữ là thứ chữ phiên âm thì để nó làm đúng vai trò phiên âm và phương tiện ưu thế của mẫu tự Latin trên truyền thông. Còn như thể thống quốc gia thì phải bưng chữ Nôm trở lại diễn đàn dù chỉ là hình thức. Các đền đài miếu tự, các tiêu điểm văn hóa, các phù hiệu, khẩu hiệu của các cơ quan, chính phủ phải nên khắc bảng chữ Nôm trở lại. Có như rứa thì mới tạo nên một ý thức đúng đắn trong việc sử dụng quốc ngữ. Vả lại, học chữ Nôm có thể đả thông được một văn tự lớn nhất trên thế giới. Đó là chữ Hán thì cần lắm chứ! (Sorry tôi phải nói sự này nhiều lần như khẩu hiệu tuyên truyền). Thôi thì dông dài chuyện này làm chi!

Còn chuyện chữ quốc ngữ, cũng vì cứ đặt nặng quá làm như quốc hồn ngàn năm nên cứ sợ là quần chúng không theo. Cứ như quần chúng đa phần thấy được sự phiên âm nhỏ bé này thì không những đã thuận đổi lối phiên âm mà còn lăn đi học lại Hán Nôm không chừng.


x X x 


Bìnhluận về "Sửađổi Cáchviết TiếngViệt"

Author: Lê Quang 
Date:   Tuesday 03-26-02 10:52 (PST)

Thưa quý cô bác,

Lê Quang: Thật không biết bắt đầu như thế nào đây. Ðầu tiên, xin cảm ơn những quý vị gầy dựng nên website này, quý vị đã làm một việc rất có ý nghĩa cho người Việt chúng ta. Nó thật là quý giá trong việc duy trì văn hóa Việt và có giá trị rất nhiều trong việc nghiên cứu tiếng Việt, và hơn nữa, nó là nơi để mọi người Việt khắp nơi trên thế giới gần gũi nhau hơn và nghĩ về cái gốc của mình hơn - thật là cảm kích. Bây giờ thì xin bàn về việc cải cách tiếng Việt. Nói về bàn, thì cháu thích nói chuyện tranh cải nhau hơn là viết, nhưng mà không có cách nào khác vậy. Cháu tuy mới ở tuổi hai mươi mấy, nhưng cũng xin các bác cho cháu xưng là tôi khi viết bài này. Cháu thấy nếu cháu xưng là tôi thì khi tranh luận thấy nó bình đẳng hơn, thấy mọi người đều đứng trên một diễn đàn ngang nhau. Nếu có gì quá đáng, xin các bác bỏ qua dùm. Vô cùng cảm tạ.

Thiệt là bứt rứt sau mỗi lần đọc các bài viết về cải cách tiếng Việt. Thấy người này muốn đổi chữ Việt như thế này, người khác thì muốn đổi như thế khác, thiệt là khó hiểu. Theo thiển ý của tôi thì chữ Việt không cần phải thay đổi như vậy. Theo tôi, nó không phải là một cái tầm thường, và dĩ nhiên nó không phải là thứ cặn bã như có người đã nói, mà nó là một sản phẩm vô cùng giá trị của một quá trình nghiên cứu lâu dài, và hết sức khoa học, trãi qua gần 3-4 thế kỷ để đạt được sự hoàn mỹ của nó như chữ Việt mà người Việt chúng ta đã dùng cả gần thế kỷ qua, và là cái chữ mà chúng ta đang viết tại nơi đây.

Nhìn chung, việc bàn luận nhắm vào hai điểm chính: viết chữ dính với nhau vì tiếng Việt là đa âm tiết, và biển đổi tiếng Việt bằng cách không dùng dấu nhấn, và thêm hay bớt từ để gọi là "cải cách" nó đi (như có người đã viết:Vaiz deaz nghij veaz cais cach chuur viet vaz coux truc hoax tiéng Viejt - Thật là một sự bất ngờ thú vị!). Thôi thì tôi đoán chắc rằng những người đưa ra những luận điểm này không có người nào là người nghiên cứu và học về ngôn ngữ học cả, (tôi sẽ rất là ngạc nhiên, không biết sao thốt nên lời nếu đó không phải là sự thật!), và tôi thì cũng không phải là người học về ngôn ngữ học, nên tôi xin bàn về những điểm trên bằng "common sense" (lý lẽ thường tình) vậy. Sau đây tôi sẽ lần lượt dùng common sense để bẽ gãy từng luận điểm trên, chứng minh chúng là sai:

1) Luận điểm sai 1: viết chữ dính với nhau vì tiếng Việt là đa âm tiết.
Thoạt đầu tôi đọc bài của bác thì tôi cũng lấy làm thú vị, thấy cái gì đó lạ lạ, nhưng quả thật là để đọc xong bài đó tôi đã sốn cả mắt, thiệt là khổ. Thôi thì không cần nói thì ai cũng biết viết dính lại với nhau thì sẽ rất là khó đọc, và không có mỹ thuật lắm, và cũng dễ gây nhầm lẫn vô cùng (nếu là bán hàng, thì nhiêu đó là sản phẩm khó bán chạy rồi), nhưng điều quan trọng ở đây là tôi nghĩ bác đã có một sự hiểu sai lầm về đa âm tiết. Thí dụ như sau:

trungtâm vănhóa = culture center (tiếng Anh)
nghềnghiệp = profession
đềnghị = suggest
hệthống = system
kháchhàng = customer
ngônngữ = language
-- hay những chữ dài hơn --
sựhiểubiết = intelligence
thôngtin = information
sựdốtchữ = illiteracy

Như quý vị thấy, các từ tiếng Anh trên đều là đa ấm tiết (đọc ra thành 2 âm hay hơn 2 âm). Từ 'profession' được tạo thành bởi pro + fes + sion thành profession, tất cả là 3 âm, từ 'customer' được tạo thành bởi cus + tom + er, từ 'intelligence' được tạo thành bởi in + tel + li + gence, từ 'information' được tạo thành bởi in + for + ma + tion, và tương tự từ 'illiteracy' được tạo thành bởi il + lit + er + a + cy. Như quý vị thấy, các từ này đều được tạo thành bởi những phần nhỏ ghép lại mà những phần nhỏ này đều là ÂM, tôi muốn nhấn mạnh chữ ÂM (mà những ÂM này không mang ý nghĩa gì cả), chúng nó không phải là từ. Nhưng nhìn những chữ Việt tương đương 'nghề nghiệp', 'khách hàng', 'sự hiểu biết', 'thông tin', và 'sự dốt chữ', mỗi từ ghép này được cấu tạo từ những TỪ rời, tôi muốn nhấn mạnh chữ TỪ. Mỗi từ đều mang ý nghĩa riêng của nó, nó không đơn giản là một âm mà nó là một từ và nó có ý nghĩa. 'Nghề nghiệp' là từ Hán-Việt, người ta cũng hay nói 'anh làm nghề gì?' hay là 'sanh nghề, tử nghiệp', còn các từ 'khách', 'hàng' | 'sự', 'hiểu', 'biết' | 'thông', 'tin' | 'sự', 'dốt', 'chữ' | thì quá dễ thấy mỗi từ đều có ý nghĩa riêng của nó.

Từ ở trên, chúng ta thấy được đều gì? Căn bản của ngôn ngữ đa âm tiết là cái khả năng của nó có thể ghép những 'ÂM vô nghĩa' lại để tạo thành từ, chứ không phải chỉ đơn giản là ghép nhiều từ lại để thành từ mới. Căn bản của ngôn ngữ đơn âm tiết là mỗi từ là một âm, muốn tạo từ mới thì ghép các từ lại mà tạo thành từ mới. Tôi muốn nhấn mạnh chữ 'căn bản', (dĩ nhiên đâu đó người ta sẽ tìm thấy được một vài cái không theo cái căn bản hay cái gốc đó) chúng ta phải hiểu được cái 'căn bản' thì chúng ta mới không đi sai lạc, chúng ta mới không xây dựng một cái gì mới hay 'lạ' mà lại không dựa trên cái 'căn bản' của nó, và do đó biến nó thành một thứ hoàn toàn khác. Thí dụ trong tiếng Anh, quý vị sẽ thấy những từ như 'pickpocket', 'wholesale', 'girlfriend',... quý vị sẽ thấy ngay nó là do 'pick' ghép với 'pocket', 'whole' với 'sale', và 'girl' với 'friend'; vì căn bản (cái gốc) tiếng Anh là đa âm tiết do đó người ta dùng cách ghép như thế này không thấy choáng mắt và chóng mặt, nhưng cũng nên thấy rằng, người ta không viết dính những từ như 'credit card', 'fast food', 'high school', 'first aid', 'open air', 'private sector', 'polar bear', 'remote control', 'solar system', ... tôi có thể kể hằng hà sa số.

Một điều tôi nhận thấy rằng các ngôn ngữ đa âm tiết như tiếng Tây phương và tiếng Nhật chẳng hạn, chúng có rất ít những âm chính (thí dụ từ 'hiểu' thì 'h' là âm phụ, và 'iểu' là âm chính). Thí dụ tiếng Nhật thì thường chỉ thấy âm 'a', 'ô', 'i', 'u', và 'ai' (có thể còn một vài âm khác nữa), như từ 'kimono', 'hanaco', 'sachico', 'samurai', 'Tokyo', 'Nagasaki', 'Toyota',...vân vân, hay trong tiếng Tây Ban Nha thì có các âm sau:
- el boleto de ida y vuelta (round-trip ticket) có âm 'ô', 'ê', 'i', 'a', 'u'
- !muy bien! (very well) có âm 'uy', 'i', 'e'
Ngoài ra nó cũng có âm 'ai', 'ei', 'oy', 'uy', 'au', 'eu', 'ia', 'ie', 'io', 'iu', 'ua', 'ue', 'uo', nhưng nói chung trong tiếng Tây Ban Nha, thấy âm 'ô' , 'a', 'ê' được lập đi lập lại nhiều vô kể. Còn nói về tiếng Anh thì ta có:
(xin nhắc là những âm này gần giống thôi)
- âm 'â' như 'u' trong 'but' - âm 'ơ' như 'e' trong 'kitten'
- âm 'ơ' có 'r' như 'ur'/'er' trong 'further' - âm 'ă' như 'a' trong 'ash'
- âm 'ê' kéo dài như 'a' trong 'ace' - âm 'o' hơi có 'a' như 'o' trong 'mop'
- âm 'au' như 'ou' trong 'out' - âm 'e' như 'e' trong 'bet'
- âm 'i' hơi kéo dài như 'ea' trong 'easy' - âm 'i' như 'i' trong 'hit'
- âm 'ai' như 'ice' trong 'ice' - âm 'ô' dài như 'o' trong 'go'
- âm 'o' kéo dài như 'aw' trong 'law' - âm 'oi' như 'oy' trong 'boy'
- âm 'u' kéo dài như 'oo' trong 'loot' - âm 'u' như 'oo' trong 'foot'
- âm 'eơ' như 'air' trong 'hair' - âm 'iơ' như 'ere' trong 'here'
- âm 'uơ' hay 'juơ' như 'ure' trong cure - âm 'a' như 'ar' trong 'car'
Cộng lại thì tiếng Anh có khoảng 20 âm chính.

Tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh có nhiều âm như thế đó nhưng so với tiếng Việt, một tiếng đơn âm tiết thì số âm chính trong tiếng Tây Ban Nha/Anh như vậy cũng có thể nói là còn quá it. Trong tiếng Việt ta thấy:
- a ă â e ê i (giống như y) o ô ơ u ư / ai ao au ay âu ây eo ia iê (như 'iê' trong 'liên','biệt') iêu (hay yêu) iu / oa oai oe oi ơi ua uâ uê ui uy uyê uô (như 'uô' trong 'muốn), uya (như trong 'khuya'), ưa, ươ ưu, ươi, ươu (như trong 'rượu'), yê -

Tôi có thể quên không kể một vài cái nữa, nhưng nhiêu đó cũng là nhiều rồi - cộng lại cũng hơn 40 âm chính, nhiều quá đúng không quý vị? Chưa kể tiếng Việt có nhiều cách ghép âm tạo ra những âm mới, như 'ac', 'at', 'ach', 'anh', 'ang'...vân vân, và cũng không thể quên rằng tiếng Việt là tiếng có âm điệu gồm 6 bậc: ngang, huyền, sắc, ngã, hỏi, nặng - có nghĩa chỉ cần có 1 âm có thể tạo ra 6 từ khác nhau. Với hơn 40 âm chính và cái tính âm điệu của nó, nó có thể tạo ra vô số từ, nó không cần phải ghép âm để tạo ra từ mới. Tiếng Việt chúng ta có nhiều âm, mà lại trầm bỗng, mỗi từ phát âm ra như một nốt nhạc, nói như hát, mang đầy tính nhạc, tính 'ca dao', mà ngâm thơ thì khỏi phải nói.

Từ trên ta thấy gì? Một ngôn ngữ nếu có ít âm chính sẽ phát triễn một cách tự nhiên để trở thành đa âm tiết bằng cách gộp âm lại để tạo ra từ mới để diển tả khái niệm mới. Ðó là một quá trình hết sức tự nhiên. Một ngôn ngữ nếu có nhiều âm chính, lại mang tính âm điệu thì nó không có cái nhu cầu để gộp âm ('âm', chứ không phải 'từ') lại để tạo từ mới bởi vì tự nó đã đủ khẳ năng để tạo từ mới, do đó chúng ta chỉ thấy có ghép từ trong tiếng Việt mà chúng ta không thấy ghép âm là vậy, và như vậy nó trở thành ngôn ngữ đơn âm tiết cũng rất tự nhiên thôi. (Nếu mà bây giờ ta cứ ghép âm để tạo ra từ mới, thì chắc đến một lúc nào đó tiếng Việt chúng ta sẽ vô cùng rắc rối không biết đâu mà rờ - nhiều âm mà cộng nhiều nhiều âm nữa thì thôi con cháu ta học miệt mài luôn quá)

Nói tóm lại, quý vị cũng thấy đấy, việc viết dính các từ lại, điều ấy quả thật là không đúng, không thích hợp với tiếng Việt chúng ta. Ngoài việc nó làm cho ta sốn mắt, nhứt đầu, làm cho mấy em nhỏ học đọc và viết vô cùng khó khăn, không có thẩm mỹ, dễ gây nhầm lẫn, nó còn không mang tính tự nhiên của một ngôn ngữ, cái tính chất quan trọng nhất đối với một ngôn ngữ con người. Việc viết dính lại như vậy là không thể chấp nhận được. Nó hoàn toàn sai, không thích hợp, và có hại quá nhiều.

Thôi thì phần một tạm xong, bây giờ tôi xin nói về luận điểm 2 - tôi viết cũng đã hơi dài, mong quý vị thông cảm, nhưng vì quá bức xúc, không viết không được.

2) Luận điểm sai 2: biển đổi tiếng Việt bằng cách không dùng dấu nhấn và thêm hay bớt từ để gọi là "cải cách" tiếng Việt vì cho rằng cách viết kiểu hiện tại không thể hiện được tính khoa học của một ngôn ngữ, như có người đã đề nghị viết thay câu: 'Vài đề nghị về cải cách chữ viết và cấu trúc hóa tiếng Việt' bằng ký hiệu như thế này: 'Vaiz deaz nghij veaz cais cach chuur viet vaz coux truc hoax tiéng Viejt'.

Người đưa ra đề nghị này có thể là 'quên' hay là 'không hiểu' một điều rất quan trọng về cái chức năng cốt yếu của bảng ký tự abc (alphabet) trong ngôn ngữ nói chung, hay ngôn ngữ Tây phương nói riêng. Các ký tự alphabet không chỉ đơn thuận là những ký hiệu đơn giản mà nó là một dụng cụ (a tool) dùng để 'ký âm' hay nói nôm na là 'ghi lại âm thanh' cho ngôn ngữ. Có nghĩa là gì ? Tôi xin nói thêm sau đây:

Khi nói về chữ viết Trung quốc, ta biết rằng chữ của nó không phải là để 'tạo âm' mà là để 'tạo nghĩa', chữ của nó nói lên cái nghĩa mà nó muốn diễn đạt chứ nó không giúp người đọc biết làm thế nào để phát ra cái âm của nó - đó là cái điểm yếu của chữ Trung quốc vậy. Chắc cũng tại vì vậy mà mỗi nơi đều có cách phát âm chữ viết khác nhau cả, nhưng họ còn được một cái là dầu là người Phước Kiến, Quảng Ðông, Triều Châu hay Bắc Kinh khi nói tiếng địa phương của mình thì người ở địa phương khác không hiểu gì cả, nhưng khi viết xuống thì họ đều hiểu được nhau vì chữ thì xài chung, nhưng âm thì mỗi nơi mỗi khác - cũng còn đở.

Còn ở Tây phương, bảng ký tự alphabet được ra đời là để ghi lại âm thanh của từ ngữ trong ngôn ngữ họ, như dùng 'a' để nói là âm được phát ra là như 'ah', hay 'b' để nói nói là âm được phát ra là như 'b(ờ)', hay dùng 'e' vì âm nó phát ra là 'eh' chẳng hạn, thí dụ trong tiếng Tây Bang Nha, người ta viết:
- No tengo mucho dinero (có nghĩa là 'tôi không có nhiều tiền' hay tiếng Anh là 'I don't have much money') - nếu chúng ta phiên âm câu này ra âm Việt thì nó như thế này "Nô tên-gô mu-chô di-nê-rô" - nó gần giống tiếng Việt quá đúng không quý vị, có khác là nó quy ước 'o' sẽ được đọc là 'ô', 'e' sẽ được đọc là 'ê'. Nói chung cấu trúc ký âm của nó vô cùng chặc chẽ, quy tắc đàng hoàn, các tiếng Italy, Bồ Ðồ Nha, hay ngay cả Ðức, và còn nhiều tiếng khác nữa nghe đâu cũng có cấu trúc ký âm cũng rất là chặc chẽ như vậy, rất dẽ dàng trong việc đọc và viết, vì mỗi từ riêng biệt thì có âm (hay đa âm trong trường hợp từ đa âm) riêng biệt cho nó, không lầm lẫn với từ khác được - giống như chữ viết tiếng Việt của ta vậy.

Còn nói về tiếng Anh thì thôi, tôi nghĩ quý vị cũng biết rồi, nó vô cùng lộn xộn, cách ký âm của nó thật là bất trật tự, chữ viết đôi khi không phản ánh đúng với cái âm phát ra của nó, thiệt là làm cho người học tiếng Anh nhứt đầu, học nói, học đọc hoài mà cũng khó mà thông nổi. Bởi vậy mà tổng thống Bush cứ phải phát động việc dạy cho mấy em nhỏ tập đọc, nếu tôi không lầm, thì nghe đâu rất nhiều em nhỏ không thể đọc tốt lắm, chẳng hạn, nhiều em lớp bốn không đọc được đúng với cái mức mà học sinh lớp bốn cần phải đạt được. Tôi nghĩ cái sự bất trật tự về ký âm và vấn đề 'âm không trùng từ' của tiếng Anh cũng là một nguyên nhân không nhỏ trong đó. Xin nêu ra một vài thí dụ cho quý vị nào không phải học tiếng Anh được rõ:
- 'too', 'two', 'to' các từ này đều đọc giống nhau /tu:/ (u kéo dài) - 'to' cũng được đọc là /tu/ (u ngắn)
- 'bow' đọc là /bau/ nếu nghĩa là 'cúi mình', và đọc nôm na như /bô/ trong tiếng Việt nếu nghĩa là 'cái cung', từ 'tow' nôm na là /tô/, và 'low' nôm na như /lô/
- 'loot' đọc là /lu:t/ (u kéo dài), nhưng 'foot' lại đọc là /fut/ (u không kéo dài)
* và còn nhiều nữa, nói chung vấn đề là khi viết khác thì lại đọc giống, khi viết giống thì lại đọc khác, khó mà cho người ta suy đoán được.

Tôi nói một cách dài dòng về vấn đề ký âm ở trên là để tôi muốn nói đến tiếng Việt, hay đúng hơn là sự khoa học trong việc ký âm của tiếng Việt. Như tôi đã nói ở phần mở đầu bài viết, chữ Việt chúng ta là sản phẩm vô cùng giá trị từ một công trình nghiên cứu lâu dài và đầy tính khoa học không thua gì, hay có thể là hơn cả các chữ Viết ở Tây phương. Tôi còn nhớ hồi nhỏ cô giáo dạy đánh vần, như:
- chữ 'tôi' đánh vần là 'ô i ôi tờ ôi tôi'
- chữ 'yêu' đánh vần 'y ê u yêu'
- chữ 'tiếng' đánh vần 'i ê ngờ iêng tờ iêng tiêng sắc tiếng'
- chữ 'nước' đánh vần 'ư ơ cờ ươc nờ ươc nươc sắc nước'
- chữ 'tôi' đánh vần 'ô i ôi tờ ôi tôi'

Ðọc lại thành 'tôi yêu tiếng nước tôi'. Lúc nhỏ còn khờ, có biết gì đâu, học đánh vần như con vẹt, đâu có thấu hiểu cái thâm thúy của nó, đâu thấy được cái hay cái độc của nó, chỉ đọc lấy được lấy đại, thiệt là tội nghiệp. Nhân việc bàn luận về tiếng Việt này, mới ngồi ngẫm nghĩ thì thấy mọi thứ đều không đơn giản, và mới biết được rằng mình biết một mà không biết hai, biết như vẹt mà không thấu hiểu, ngay cả cái chữ mình đã sử dụng hằng bấy lâu nay. Nhưng nhờ việc ngẫm nghĩ này mà tôi mới tìm ra một điều vô cùng thú vị. Xin thưa với quý vị như sau:

Thưa quý vị, phải nhớ rằng các giáo sĩ truyện đạo ngày xưa là người nước ngoài học tiếng Việt. Vì là người nước ngoài học tiếng Việt nên muốn nói cho thông thạo như người bản xứ thì phải học phát âm cho chính xác thì mới có thể truyền cái đạo cho người bản xứ được, do đó việc ký âm vô cùng quan trọng đối với họ. Câu hỏi quan trọng là: ký âm làm sao mà có thể nhìn vào ký âm đó mà người ta có thể đọc ngay ra âm của nó? Dĩ nhiên họ phải nghiên cứu tiếng Việt rất nhiều để tìm xem tiếng Việt có tất cả bao nhiêu dạng âm (như 'a', 'ai', 'ao', 'ên', 'iên'...) và làm sao để dùng 'ký âm' để diễn đạt chúng - với số âm trong tiếng Việt quả thật là nhiều, thì việc này quả là một sự công phu - và dĩ nhiên họ đâu thể trong một ngày một bữa mà có thể làm được, đã mất gần 2-3 thế kỷ để hoàn thiện việc ký âm này. Cái tính khoa học của chữ Việt chính là cái cách 'ký âm' tuyệt diệu của nó. Hãy nhìn câu:
- 'Tôi yêu tiếng nước tôi.' - quý vị thấy gì?

Hãy xem xét chữ "tôi", tại sao viết như vậy mà chúng ta đọc ra âm /tôi/ - Tôi tìm lời giải đáp bằng cách tách chữ "tôi" ra thành "tô" và "i". Nếu quý vị đọc "tô", rồi đọc chữ "i" liền sau đó thành "tô i", đọc nhanh lên và nhiều lần "tô i", "tô i", "tô i", "tô i", quý vị sẽ nghe âm phát ra thật sự là /tôi/ - có thể nói là rất là giống, có thể không phải là 100%, nhưng rất là giống âm /tôi/ phải không quý vị. Và quý vị cũng nhận thấy rằng tại sao viết "tôi" để chỉ từ "tôi" mà không viết là "toi", như quý vị thấy "toi" viết rời ra là "to i", đọc "to i" vài lần sẽ thấy nó phát ra âm /toi/ như trong cụm từ "gà chết toi".

Tương tự ta lấy chữ yêu, tại sao ta đọc là /yêu/ - Hãy tách nó ra thành "y" và "êu" và đọc thành hai âm "y" và "êu", cứ đọc "y êu" một vài lần thì quý vị sẽ thấy âm phát ra quả thật là /yêu/, hay quý vị có thể tách nó ra làm 3 âm cũng được: "y", "ê", "u", đọc 3 âm này liên tục với nhau, một vài lần quý vị sẽ thấy nó phát ra âm /yêu/.

Bây giờ ta tách từ "tiếng" ra làm 2 âm "ti" và "ếng" và đọc "ti ếng", "ti ếng" vài lần, tôi nghĩ là quý vị sẽ công nhận là nó phát ra âm /tiếng/ đúng không, hay là gần giống như vậy - giống giọng người ở miền Bắc của nước ta thì đúng hơn. Dấu sắc được đặt trên chữ "ê" là vì âm này là âm "sắc"= 'âm đi lên' nên âm sau phải có dấu sắc, thay vì đặt dấu sắc lên âm đầu là "i".

Còn từ 'nước' thì cũng như vậy, tách nó ra thành "nư" và "ớc", cứ đọc "nư ớc" vài lần thì sẽ thấy nó phát ra âm /nước/.

Bây giờ ta thử lấy chữ "khuya" mà thử nghiệm, tách nó ra thành "khu" + "ya" hay "khu" + "ia" đọc
"khu" rồi "ia" thành "khu ia", vài lần thì thấy nó phát ra âm /khuya/ đúng không.

Lấy chữ "Việt", tách ra thành "Vi" + "ệt", thì cũng cho ta âm /Việt/

Hay lấy chữ "rượu", chữ này thì phải tách ra làm 3 bởi vì chúng ta không có âm /ợu/, tách ra làm 3 thì chúng ta được "rư" + "ợ" + "u". Ngộ thay nó ra âm /rượu/.

Hay lấy từ "Huế" chẳng hạn, tách thành "Hu" + "ế" và đọc "hu ế"...quý vị cũng sẽ thấy nó ra âm /huế/ đúng không.

Bây giờ ta lấy những âm đơn giản hơn như là chữ "ác" và "át" chẳng hạn. Với những âm đơn như thế nào, theo tôi, để tạo ra được âm chính xác thì ta phải đọc âm chính cho lớn lên, như từ "ác" đọc nó là "á c(ờ)" - đọc "á" cho lớn lên và theo sau là âm "cờ" rất là nhỏ thôi thì quý vị sẽ thấy nó phát ra âm /ác/. Tương tự đọc chữ "át" bằng "á t(ờ)" - nhớ là âm "á" đọc cho to, và âm "t" thì nhỏ thôi, quý vị sẽ có được âm /át/. Bây giờ thì ta thấy nó rất dễ dàng để phân biệt được giữa "ac" và "at" - tôi biết có người đọc không phân biệt 2 âm này, như tôi chẳng hạng, như trong từ "tác" và "tát" - nhất là người ở miền Nam.

Nói chung, tôi đã thử cách đọc như vậy với rất nhiều từ và thấy nó rất là hợp lý và nó giúp cho tôi đọc đúng tiếng Việt hơn. Phần lớn thì nó giống âm của người dân miền Bắc của nước ta hơn, có lẽ những giáo sĩ ngày xưa dựa vào âm người miền Bắc mà làm nên chữ Việt. Có một vài trường hợp không hợp lý lắm thí dụ như là làm sau phân biệt 2 âm "thúi" và "thúy" qua cách viết của chúng ta. Thật là quá khó phân biệt:
- "thúi" tách ra thành "thú" và "i" thì nghe cũng gần giống âm /thúi/ lắm.
- "thúy" tách ra thành "thú" và "y", mà nếu "y" thì đọc như "i" nên nó cũng như "thú" và "i", thành ra âm /thúi/ rồi còn gì. Tôi nghĩ là nên viết chữ "thúy" thành "thuý" và ta sẽ đọc là "thu ý" thì nghe nó giống âm /thúy/ hơn - coi như là tôi cứu 2 chị em Thúy Kiều và Thúy Vân vậy (viết tên của họ thành Thuý Kiều và Thuý Vân).

Một điều nữa là tôi hơi khó hiểu dụng ý của những giáo sĩ ngày xưa về chữ "i" ngắn và "y" dài. Tôi nghĩ không phải đơn giản chỉ là do mỹ thuật (như viết chữ "y tế" thành "i tế" thì thấy hơi kỳ). Ta hãy xem từ "hai" và từ "hay", nếu âm "i" và "y" đều đọc giống nhau thì 2 cái từ phát ra âm có gì khác biệt đâu?
Theo ý của tôi thì, khi dùng "y" thì âm được nhấn mạnh hơn:
- "hai" thành "ha i", ta đọc âm "ha" cho to lên.
- "hay" thành "ha y", ta nên đọc âm "ha" nhỏ đi, và âm "y" mạnh lên, nghe rất giống âm /hay/ mà ta phát âm hằng ngày. Theo tôi thì đó là sự khác biệt giữa "i" và "y". Quý vị cho ý kiến.

Nói dài dòng từ trên xuống dưới cốt là để chứng minh với quý vị rằng chữ Quốc Ngữ không phải là một sự tình cờ hay một sự gán ép mà là một sự sáng tạo đầy tính khoa học của những người tạo ra nó hằng trăm năm về trước.

Bây giờ thì tôi xin trở lại lời đề nghị cải cách tiếng Việt như thế này 'Vaiz deaz nghij veaz cais cach chuur viet vaz coux truc hoax tiéng Viejt'. Qua việc trình bày của tôi ở trên thì tôi nghĩ quý vị cũng đồng ý với tôi là cải cách như thế này là không có tính khoa học chút nào cả. Cũng xin nói thêm rằng: tiếng Việt chúng ta là tiếng có âm điệu thì việc dùng dấu nhấn là vô cùng hợp lý và hơn nữa như quý vị đã thấy ở trên, vị trí của dấu nhấn rất quan trọng, chỉ việc thay đổi vị trí của nó cũng đã ảnh hưởng tới việc phát âm rất nhiều, huống hồ chi là thay thế nó bằng mấy chữ x,y,z...thì sự tai hại lại càng gấp bội. Hơn nữa, chúng ta cũng không thể thay thế những chữ "ê" bằng "ei", hay "ô" bằng "ou",...một cách tùy tiện vì như vậy ta vô tình biến những âm ngắn (vowels) thành âm dài (diphthongs), và âm dài thành âm dài hơn nữa là điều không hợp lý.

Nói tóm lại muốn cải cách việc gì thì cũng cần một sự nghiên cứu kỷ lưỡng, như việc chúng ta thảo luận ở đây là một việc tốt, có cọ xát thì mới thấy cái điểm nào hay, cái điểm nào dở, từ đó mà rút ra những việc gì cần nên làm, việc gì không nên làm. Nhớ lúc tôi còn nhỏ, mấy ông "nhà nước" ở Việt Nam cũng làm "cải cách" tiếng Việt, đặc biệt là việc "cải cách" cách viết tiếng Việt, cũng vì quá nóng lòng muốn thay đổi mọi thứ cho nó khác với chính quyền Sài Gòn trước '75 dù là cái cũ nó không có vấn đề hay trục trặc gì cả. Hậu quả của việc "cải cách" cẩu thả đó là đã sanh ra một thế hệ trẻ Việt Nam viết chữ y như là bún bị đứt khúc, và cứ thường hay "confused" giữa chữ "i" ngắn và chữ "y" dài, thật là oan uổng. Sau hơn 20 năm, nghe nói đâu họ mới "sửa sai" cái cải cách cẩu thả này vào khoảng cách đây vài tháng bằng cách là "cải cách" một lần nữa cho nó trở lại như xưa, y như là tiếng Việt mà người dân sử dụng trước '75 vậy. Một chuyện dễ thấy như vậy mà đã mất đến 20 năm mới có người lên tiếng để sửa sai thì thử hỏi còn bao nhiêu chuyện cấp bách khác, hay chuyện mà ta không dễ thấy mà có thể gây thiệt hại nặng nề còn chưa được nhắc đến. Tất cả cũng vì do sự thiếu dân chủ, thiếu thảo luận, người dân không được nói lên ý kiến của mình trong những vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh của chính họ và đất nước. Thiệt là buồn cho dân Việt, đất Việt.

Thôi thì nghĩ sao viết vậy!

Lê Quang - Tôi yêu tiếng nước tôi!

------------------------------------


Trảlời của dchph

 

Chẳngai chê tiếngViệt chữViệt là "cặnbả" hết, cólẽ bạn hơi quálời khôngkhéo lại kíchđộng những ngườikhác vì từngữ bạn dùng, rồi xúmnhau nệncho tên nầy mộttrận, nó dámnói chữViệt là cặnbả!  Bạn cóthể chỉ cho mọingười thấy ai trong diễnđàn này dámnói chữViệt là "cặnbả" không? 

Cáidỡ của bạn là khi tranhluận về một vấnđề bạn đã mang tìnhcảm cánhân vào quanđiểm của mình. Thídụ khi nói về việc chữAnh viếtliền thành từghép thí bạn nói để ngườita đọc "không thấy choáng mắt và chóng mặt", còn bạn phêbình về cáchviết dínhliền trong chữViệt thìlà "việc viết dính các từ lại, điều ấy quả thật là không đúng, không thích hợp với tiếng Việt chúng ta. Ngoài việc nó làm cho ta sốn mắt, nhức đầu, làm cho mấy em nhỏ học đọc và viết vô cùng khó khăn, không có thẩm mỹ, dễ gây nhầm lẫn, nó còn không mang tính tự nhiên của một ngôn ngữ, cái tính chất quan trọng nhất đối với một ngôn ngữ con người. Việc viết dính lại như vậy là không thể chấp nhận được. Nó hoàn toàn sai, không thích hợp, và có hại quá nhiều." Rấttiếc là ýkiến của bạn vì những lờinói đó làm mấtđi tínhkháchquan cầnthiết, dođó quanđiểm của bạn sẽ chỉđược những người có cùng những tìnhcảm như bạn chiasẻ, ngoàira thì cáigiátrị cònlại chỉ là cáicơhội dânchủ đồngđều mà bạn đã đónggóp phần mình rồi. 

Thựcsự tôi cũng chẳngphải cần phúcđáp thư bạn vì tôi tin là nhiều người đọc bài của bạn sẽ nhậnra những điều tôi thấy, nhưng tôi erằng sẽ cóngười tinvào lời bạn thì hỏng cả! Tôi không hyvọng sẽ làmlaychuyển suynghĩ của bạn theoý của tôi nhưng là nhắmvào những người còn bántínbánnghi vào cách biệnluận củabạn.

Nếu bạn cho tiếngViệt là "hoànmỹ" thì cũng dễhiểu vì bấtcứ dântộc nào ai cũng cholà ngônngữ mẹđẻ của mình là đẹpnhất, haynhất. Còn chuyện bạn nhậnxét thấy chữViệt "hếtsức khoahọc với một quátrình nghiêncứu lâudài" thì cólẽ đóchỉ là "thiểný" của bạn. Cólẽ cáitính khoahọc của nó xuấtphát từ cái khohọc phongphú về ngônngữ của bạn khi bạn mang nó ra sosánh với tiếngNhật, tiếngAnh, tiếngTâybannha, tiếngÝ, nhưng thiếumất hai thứ tiếng quantrọng khi bànvề "tínhkhoahọc" và "bảnchất của tiếngViệt", đólà tiếngÐức (tínhkhoahọc, nghiêncứu kỹ thứ tiếng nầy cólẽ bạn sẽ hiểu nhiềuhơn về những kháiniệm đơngiản như tự và từ, từkép cũngnhư từghép trong tiếngViệt) và tiếngHán (từnguyên và bảnchất tiếngViệt). Thậtsự tôi khôngbiếtgì nhiều về tiếngÐức. Hồixưa có học qua ba năm, nhưng vì thờiấy, tôi cảmthấy điều giốngnhư bạn đang cảmthấy, là danhtừ của văntự nầy viết dínhlại vớinhau rấtlà khóđọc, và không mỹ thuật lắm, và cũng dễgây nhầmlẫn (?) vôcùng nên tôi khôngthèm học nữa! Bâygiờ nghĩlại mới thấytiếc! Mộtsố người ưa lẫnlộn tự với từ, bởilẽ từnhỏ ngườita chỉ dạy từng chữ (tự) chứkhôngphải từ. Cũng giốngnhư khi bànvề tiếngAnh mà thiếu phần đềcập đến những từgốc Anglo-Saxon của nó và từnguyên tiếng Latin vậy. Cólẽ đólà một thiếusót lớn.

Về chữViệt, cánhân tôi đãtừng ngẫmnghĩ là dântộc mình baogiờ cũng tựhào với bốn ngànnăm vănhiến, nhưng thưtịch sáchvở chỉ cònsótlại độ 1000 năm trởlại ghi bằng một thứ văntự nửa Hán nửa Nôm mà giờđây khôngcòn mấyai thathiết muốn học, trongkhi chữ Quốcngữ đầuđuôi chínhthức sửdụng chưatới một thếkỷ, muốn tìmhiểu khotàng vănhoá của chính tổtiên thì đọc khôngđược. Khi ngườita hỏi bạn tínhsao mà ra bốn ngàn năm, thì thực khó trảlời bạn ạ. Nhiều người biết nămba thứtiếng ÂuMỹ, còn chữ của ôngtổ ôngtiên đểlại thì chớtquớt, cógì đâu mà hãnhdiện, bạn?

Tôi cũng như bạn, dùng "lýlẽ thườngtình" để suyluận và đặtvấnđề là đủ rồi, cáinhãn nhàngônngữhọc cógìđâu mà tranh với dành. Tôi chỉ cốgắng mang sựhiểubiết nhỏbé của mình, phântích mộtsố yếuđiểm của cáchviết tiếngViệt hiệntại để chiasẻ với mọingười và mong được sựtánđồng để cùng tìm một giảipháp tốtđẹp hơn, để cảithiện chữviết của chúngta cho ngàymột hoànchỉnh. 

Bạn cũngnhư tôi, và nhiều người Việtnam khác đều đã hấpthụ cáchhọc và cáchviết chữViệt "bờirời" từng chữ một ngaytừ nhỏ và chotới bâygiờ vẫncòn chịuảnhhưởng của cáchviết nầy. Kếtquả là nhiều người đã khôngđược uốnnắn cáchnhìn tổngthể và trừutượng về vấnđề mộtphần vì cáchviết của chữViệt ngàynay. 

Luậnđiểm của bạn cũng rất đángchúý nhưng những thídụ bạn đưara không mang tíchcách chung của từvựng Anhngữ. Nghiãlà, bạn lại chỉ cho ngườita thấy cây mà khôngthấy được rừng. Thídụ như trong tiếngAnh ta còn có những từ có gốcAnglo-Saxon: writer, reader, editor, artist, novelist... nhữ vĩngữ -er, -or, -ist... có chứcnăng không khácgì -sĩ, -giả, -sư.. trong vănsĩ, họccgiả, giáosư hết. Còn những trường hợp từghép (coumpound) thì sựtươngđồng trongcách cấutừ càng gầnhơn: therefore, nonetheless, hardware, software, blackboard, schoolgirls... Còn ngườita khôngghép 'credit card', 'fast food', 'high school', 'first aid', 'open air', 'private sector', 'polar bear', 'remote control', 'solar system' là chuyện của ngườita, không ai cấm mình tiếnthêm mộtbướcnữa kháiquáthoá những từ nầy thành kháiniệmchung cả, ngônngữ viết chẳngqua là những hìnhthức biểutượng ướclệ. Nhưvậy ta có:

- thẻtíndụng (sosánh thẻbài, thẻtre, thẻcạt..), 

- thứcănnhanh (sosánh mìănliền, đồhảisản, thịtchàbông, cáđónghộp, nướcmắmphasẵn, sữađặccóđường, càrigà, mìvịtiềm, canhchuangọt, cábônglau...),

- trườngtrunghọc (sosánh trườngđạihọc, trườngbáchkhoa, trườngmỹthuật, việnhànlâm, nhàthuỷtạ, sởnghiêncứu, trạinônglâmsúc, đồnđiềncàphê...),

- cấpcứu (sosánh cứuthương, cứuhoả, chẩnbịnh, phòngbịnh...)

- ngoàitrời (sosánh trongnhà, ngoàivườn, trênbiển, trênkhông, dướiđất,...)

Còn những từ 'private sector', 'polar bear', 'remote control', 'solar system' nếu trong tiếngViệt ta cảmthấy không kháiquáthóa ghéplại được thìthôi, saolại phải miễncưỡng?

Kháiniệm "đaâmtiết" tươngđồngvới "polysyllabic" trong tiếngAnh, cónghĩa nhưlà "having the characteristic of multi-sylllables." Syllable cóthể xemlà âmtiết trong tiếngViệt nhưngkhôngnhấtthiết làphải tươngđương với vần của tiếngViệt (một âmtiết cóthể là một vần nhưng một vần cóthể mang nhiều âmtiết!) bởilẽ, ta cóthể nói từ "trungtâm" có hai âmtiết haylà hai vần "trung" và "tâm", nhưng kháiniệm vần còn chỉ cáiphầnđuôi của một tự (chữ), thídụ: tr-ung, t-âm. Trong trườnghợp nầy xemra cách cắtchữ của bạn giốngnhư cách phântích nầy. 

Những thídụ tiếngAnh đơnlẻ mà bạn đưara đều có gốcLatin và Hylạp (Greek), còn những từ Việt đềulà từ HánViệt. Trong những từ tiếngAnh nầy, cách bạn cắtra thì đólà những âmtiết (syllable) nhỏ hơn hìnhvị (morpheme) khôngcónghĩa, và âmtiết của tiếngAnh và tiếngViệt trong trườnghợp nầy khôngcó tínhcách chung chonên khôngthể sosánh được. Trởlại trườnghợp chữ "trung", đọclà /tchwongw/ (khôngphải đọclà [trung], nếu đọc tr + u dài hay u ngắn và + ng gì cũng saibét, nhưng "chùn" trong "chùnbước" lại đọclà /chùn/.. bởilẽ tínhkýâm của tiếngViệt ta hếtsức là khoahọc đúngnhư lời bạn nói! Và nếu cắt "trung" ra theo kiểu của bạn thì nó sẽ thành ba âmtiết /tchu(w)/ + /o/ + /ngu(w)/ nhưvậy "tru" và "ong" chẳng có mốiliênhệ ngữnghĩa gì với "trung" hếttrọi! Nhưng nếu bạn cắtra theo đơnvị hìnhvị (morpheme -- đơnvị ngữâm nhỏnhất cóýnghĩa thì bạn sẽ thấy ngay sựtươngđồng nếu xétvề hìnhthức ngữcăn (root) và ngữnghĩa (semantics):

  • - trungtâm (trung >) trungtướng, trungương, trungđiểm, trunghoà, trungthực, trungdung.... (tâm >) tâmtưởng, tâmhồm, tâmthần, thâmtâm....)
  • - center (< Gốc Hylạp kentron, > Latin centralis > ) eccentric, central, cnetered, centralized, concentrate... 
  • - vănhóa ( văn >) vănchương, vănhọc, vănnhân vănnghệ... (hoá >) hoáhọc, biếnhoá, hoáthân, hoágiải....
  • - culture (Latin cultura, cult >) cultivate, cultured, cultivable, cultivate, cult....
  • - information, inform, informant, misinformation, illiterat, literacy, litterary, literature, intelligence.v.v.... 
từ nào cũngcó ngữcăn của nó hết, nhưng cáchcắt rờira của bạn đã vượtquá phạmtrù hìnhvị nên cơhồ chúng chẳng cónghĩa gì cả.

Từ kháiniệm tự, khi chuyểnqua từ (đây nóivề từghép do những tựđơn tạothành), phầnlớn chúng sẽ kếthợp hìnhthành những kháiniệm mới. Ðôikhi, nhấtlà trong tiếngHánViệt, bạn khôngthể sửdụng những "tự" đó mộtcách độclập dễdàng vì nó phải nằmtrong kếtcấu từghép mới mang ýnghĩa hoànchỉnh. Trong tiếngViệt, những từ HánViệt mỗi âmtiết hay vần đềucó ýnghĩa vì chúng mang gốcHán, là một ngônngữ từthuở có văntự là moệ ngônngữ đơnâmtiết, mỗi từ hìnhkhối (phươngthể) đềucó ýnghĩa riêng của từng tự (chữ). Cái tổngthể khôngphải là tổngsố của những cáp đơnlẻ gộplại --  ta cần phảibiết tưduy mộtcách kháiquát và trừutượng hơn mới nhìnthấyđược cáibiêngiới và hìnhthái mới của những từghép (compound).

Tuynhiên, ở đây chúngta thảoluận về từ, chứ không phải tự.

Thêmvàođó, cáchviết chínhthức trong những nghiêncứu vănhoá nghiêmchỉnh ngườita thường gạchnối những vần trong từkép và từghép lạivớinhau: ngôn-ngữ-học, học-giả, quốc-gia, trung-tâm... Nếu lấy đây làm tiêuchuẩn bạn thử sosánh với cáchviết ghép nhưlà ngônngữhọc, họcgiả, quốcgia, trungtâm... Theo ý bạn cáchviết nào trungthực và tiệnlợi hơn? Hơnthếnữa, trong tiếngViệt một tự cóthể là từ nhưng cũng cóthể chỉlà âmtiết khôngcòn giữ ýnghĩa hoặc ýnghĩa banđầu hoặc nguyênthuỷ nữa. Nhũng thídụ từ songâmtiết dướiđây là mỗi từ trọnvẹn, là một hìnhvị:

mồhôi, cùlần, cùlét, cùrũ, càlăm, càgiựt, càmràm, mõác, màngtang, mồcôi, bồcâu, lạcđà, sưtử, bângkhuâng, bỡngỡ, bồihồi, xíxọn, .....

và từ songâmtiết sauđây mà trongđó mỗi từ gồmcó hai hìnhvị: bắtcóc, coicọp, ăntiền, đánhcá, hoahồng, cắtcổ, ănđòn, tróibuộc, cởimở, làmtiền, chịutrận, mấtmặt, lòiđui, cắmdùi, lãnhđủ, ănthua, chạychọt, điđái, điỉa.... (sosánh ýnghĩa khác của những từ viết rờira 'bắt cóc', 'coi cọp', đánh cá', 'hoa hồng'...)

Từkép (âmtiết khôngthểdùng độclập) và từghép (từ những chữ cóthể chứa ýnghĩa riêng) tươngtự kểtrên trong tiếngViệt rấtnhiều và bạn có nghĩlà chúng mang tính songâmtiết không?

Còn chuyện cấutạo từ mới bạn đềnghị là nên vậndụng các thanhđiệu và vần trong tiếngViệt để khỏi tạo từ đaâmtiết thì chuyện nầy cơhồ nói chovui chứ làsao bạn tạora được chữ mới bằngcách nầy ngoạitrừ những chữ ngoạinhập như "bốt" (boot), "bai" (byte), "chíp" (chip) "bo" (board), phông (font)?.... Bạn cóthể tựnhiên đặt một vậtgìđó mới tên là "trĩm" hay"nhửng" chẳnghạn, nhưng nhưvậy có khoahoạc và hợplẽ không chodù trong tiếngViệt ta vẫnchưa tậndụng hết các thanhvận, thídụ như chẵng, chởn, cuổng, luổn chẳnghạn.... 

Tómlại, bạn phải chấpnhận một thựctế là tiếngViệt đã được đaâmtiếthoá (đúnghơn là songtiếthoá) và sẽ đi conđường nầy vì khôngcòn lốinào khác, thídụ lậptrình, xửlý, dữkiện, tinhọc, đahệ, băngtần, lànsóng, ngânhàngmáu (có "máu" chứ làmgì có "ngân"!), vimô, vĩmô, nốimạng, liênmạng, truycập, v. v. và v.v....

Còn chuyện bạn làmbàn đến cáchviết chữHán thì bạn, cũngnhư nhiều ngườikhác, đã lầm, thựctế là chữHán ngàynay là một văntự vừa kýâm vừa tượngnghĩa -- trên 90 phầntrăm số chữHán thuộc loại hìnhthanh trườnghợp này. Tuy nhìn chữ không đọcđược âm chínhxác nhưng vẫn cóthể đoán, giốngnhư khi bạn gặp từ lạmắt trong tiếngAnh vậy. Thí dụ:

  • phòng (buồng) 房 (đọc "phảng")
  • phương (vuông) 方 ("phang")
  • phàm (buồm) 帆 ("phản")
  • phảng 彷 ("phàng")
  • phóng (buông, bắn) 放 ("pháng")
  • phòng 防 ("phảng")
  • phường 坊 ("fảng")
  • cô 姑 ("ku")
  • cổ 古 ("kù")
  • cố 故("kú")
  • cố 固 ("kú")
  • cư 居 ("chü")
  • cứ 据 ("chü")
  • khổ 苦 ("khù")

v.v. và v.v.... 

Sỡdĩ tôi cũng muốn lạmbàn thêm về chuyệnnầy là bởilẽ muốn gợiý về mốiliênhệ giữa hai ngôngữ Hán Việt -- các nhàngônngữhọc trên các đạihọc lớn trênthếgiới đều nhìnnhận tiếngHán là một ngônngữ đaâmtiết, và trongkhiđó khotừvựng tiếngViệt chứa rất nhiều từ HánViệt và HánNôm (từ Hán biếnthành Nôm) rấtnhiều -- bấynhiêu đó cũng đủ để đưara kếtluận rằng tiếngViệt là một ngônngữ đaâmtiết, hayđúnghơn là ngônngữ songâmtiết. Cũng nhờ  thứ văntự phươngthể nầy mà Trungquốc thốngnhất được đấtnước họ trên 2000 nămnay nếu không thì nước nầy đã trởthành một "Âuchâu" thứhai rồi.

Còn cáichuyện haimươi năm trước nhànước sailầm trongviệc cảicách y dài (mang âmtrị [ei] như trong "tinh" /teinh/, "thuý" đọc /t'wéi/, "kỷ" đọc /kẻi/...) và i ngắn(lại mang cảhai âmtrị [i] như trong "tin"/tin/, "xin" /sin/, và [ei] trong "ti" đọclà /tei/, "hi" đọclà /hei/...) là chuyệnkhác. Bạn bỏ những consâu đó trộnchung vào một nồicanh rồi nói cảicách, cảiđắng, cảitrắng... loại cảitổ nào cảitớicảilui cũng hỏnghết, thì lýluận nầy không đi đếnđâu hết!

dchph


--------------------------

Ðôi dòng suy nghĩ

Author: Lê Quang


Date: Saturday 03-30-02 22:53 (PST)
Happy Easter!!!

Như tôi đã viết ở bài trước, tiếng Việt đúng là một tiếng đơn âm tiết. Tuy rằng trong tiếng Việt có rất nhiều từ ghép, nhưng không gì vậy mà ta gọi nó là đa âm tiết. Cũng chính vì nó là đơn âm tiết, do đó nó mới mang tính âm điệu (6 bậc âm: ngang, huyền, sắc, ngã, hỏi, nặng). Nếu chúng ta xem xét những tiếng đa âm tiết như tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ðức, Nhật, vân vân, (như tôi đã nhắc đến trong bài viết trước) chúng có một đặc điểm chung là chúng không có tính âm điệu, có nghĩa là không có trường hợp mà đọc trầm, bỗng, hay khác giọng một từ nào đó sẽ làm cho từ đó có nghĩa khác đi, chẳng hạn như các từ "ma", "mã", "má", "mạ", "mả", "mà" của tiếng Việt ta. Theo tự điển bách khoa Columbia (The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition. 2001) và nhiều tài liệu khác mà tôi đọc, thì tất cả các ngôn ngữ thuộc họ Hán-Tạng (Sino-Tibetan languages) có đặc điểm chung là họ đều là ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic languages) và có tính âm điệu, thí dụ, tiếng Miến Ðiện (Burmese) có 3 âm điệu, tiếng Thái có 5 âm điệu, tiếng Quan Thoại Trung Hoa (Madarin Chinese) có 4 âm điệu, và tiếng Quảng Ðông Trung Hoa có 9 âm điệu. Họ ngôn ngữ Hán-Tạng này được chia làm 3 nhóm gồm: nhóm Tibeto-Burman (được nói bởi người Tây Tạng và Miến Ðiện, và một số dân tộc khác), nhóm Trung Hoa (Chinese), và nhóm Thái (bao gồm tiếng của người Thái Lan, người Lào, và một số dân tộc khác).

Nói về nguồn gốc tiếng Việt, cũng theo tự điển bách khoa Columbia thì tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Austroasiatic (họ ngôn ngữ của Ðông Nam Á). Trong họ ngôn ngữ này có 3 nhóm ngôn ngữ gồm: nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer (bao gồm tiếng của người Campuchia (hay Khmer) và Mon (ở Miến Ðiện), và một số ngôn ngữ khác như Chàm,...vân vân), nhóm ngôn ngữ Munda (được nói ở các vùng Bắc và Trung Ấn Ðộ) và nhóm Việt-Mường, bao gồm một số tiếng của các dân tộc thiểu số ở nước ta và tiếng Việt chúng ta. Nguồn gốc tiếng Việt chúng ta vẫn còn nhiều tranh cãi. Có người nói rằng nên đặt nó vào nhóm Mon-Khmer thay vì cho nó một nhóm độc lập Việt-Mường, và cũng có người nói là nó thuộc nhóm Thái, một nhóm của họ ngôn ngữ Hán-Tạng), nhưng có điều phần lớn ai cũng đồng ý rằng tiếng Việt thực sự không liên hệ gì với tiếng Trung Hoa "genetically speaking" - ý nói 2 tiếng vốn có gốc gác khác nhau - tuy nhiên vì điều kiện lịch sử như ai cũng biết mà tiếng chúng ta có sự ảnh hưởng của tiếng Trung Hoa rất nhiều. Và xin hiểu rằng ngay cả khi người ta nói ngôn ngữ Việt thuộc nhóm Mon-Khmer chẳng hạn, không có nghĩa là tiếng Việt chúng ta là từ tiếng Khmer mà ra, mà nó có nghĩa là tiếng Việt và tiếng Khmer và các tiếng trong nhóm đó có cùng chung gốc gác từ thời xa xưa.

Khi nói một ngôn ngữ là đơn âm tiết, không có nghĩa là ngôn ngữ đó lạc hậu. Thật ra, tùy theo điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội, mà ngôn ngữ của một dân tộc hay một quốc gia phát triễn theo lối này hay lối khác (trở thành đơn âm tiết hay là đa âm tiết chẳng hạn). Tiếng Trung Hoa là một tiếng đơn âm tiết, nhưng dĩ nhiên nó không phải là một thứ tiếng lạc hậu. Nói về tiếng Trung Hoa thì tôi vẫn nghĩ chữ viết của nó vốn là để "tạo nghĩa", không phải là để "tạo âm", tuy rằng tôi đồng ý phần lớn chữ Trung Hoa ngày nay gồm 2 phần như tiếng Nôm của ta vậy: một phần nói lên nghĩa, một phần kia "gives clue" (chỉ dẫn) để giúp người ta đọc chữ đó, hay còn gọi là phần "sound", nhưng phần "sound" này nó cũng dựa vào một chữ khác mà thôi, và thường không có thể giúp người ta đọc đúng hay chính xác được (vốn là điều quan trọng nhất), vì vậy mà họ mới làm nên Hanzi Pinyin (Phiên âm Hán Tự) để mà dạy kèm với Hán tự để giúp các em học sinh Trung Quốc tập đọc tiếng của họ. Hanzi Pinyin vốn được tạo ra là để thay thế cho chữ viết Trung Quốc, nhưng vì nhiều lý do, trong đó có vấn đề nhạy cảm về văn hóa, chính trị, và một phần là vì tiếng Quan Thoại Trung Hoa có quá nhiều từ đồng âm dị nghĩa, nên khi dùng Pinyin thì sẽ rất khó cho việc phân biệt ý nghĩa các từ đồng âm này, nên Pinyin chỉ được sử dụng trong việc phiêm âm.

Tôi thích học chữ Hán và cũng rất muốn tìm hiểu về chữ Nôm của tổ tiên để lại. Tôi nghĩ hầu hết mọi người tìm hiểu về chữ Nôm không phải để cầu mong dùng nó để viết thư từ. Theo tôi thì chỉ đơn giản là chúng ta muốn tìm hiểu cái chữ của tổ tiên và tìm hiểu về văn hóa và lịch sử dân tộc. Chỉ mong có ngày nào khi cầm cuốn truyện Kiều bằng chữ Nôm lên mà có thể đọc được, thì lúc đó chắc là không thể nào mà không bùi ngùi, xúc động, mới thấy được cái công khổ cực của ông cha tạo nên chữ Nôm cốt là để làm mạnh lên cái tinh thần tự chủ của dân tộc. Còn nói về chữ Quốc Ngữ, tôi (tôi nghĩ không chỉ riêng tôi) đã xem nó như một cái gì đó của dân tộc Việt dẫu biết rằng nó được các giáo sĩ nước ngoài tạo nên hàng trăm năm về trước - nhưng xin đừng quên sự cống hiến của những người Việt Nam đã dạy tiếng Việt cho họ và giúp đỡ họ trong việc làm nên chữ viết, tôi nghĩ cũng không phải là nhỏ. Nhờ vào tính khoa học và tính dễ học của nó, chữ Quốc Ngữ đã góp phần rất lớn vào việc giảm bớt số người mù chữ ở Việt Nam, và dĩ nhiên, chữ Quốc Ngữ đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triễn văn học, văn nghệ (cải lương, nhạc,...), và văn hóa Việt nói chung trong suốt thế kỷ vừa qua. Hơn nữa việc dùng chữ Quốc Ngữ làm chữ viết cho tiếng Việt (thay vì Hán tự hay Nôm) vốn là chúng ta muốn làm bớt đi cái ảnh hưởng của Trung Quốc đối với văn hóa Việt Nam và đó cũng là một cách để nói lên cái tinh thần tự chủ dân tộc không muốn lệ thuộc Trung Quốc. Là người dân Việt, với tính tự hào dân tộc của mình, chúng ta không thể nào cho phép chúng ta quên được cái lịch sử đau khổ của dân tộc bị đô hộ gần trăm năm bởi Pháp và bị đô hộ hàng ngàn năm bởi Trung Hoa, nhưng không vì đó mà chúng ta căm thù người dân Pháp hay người dân Trung Quốc, hay vì thế mà chúng ta ghét bỏ chữ Quốc Ngữ hay những truyền thống tết âm lịch, vân vân... Thời đại nào cũng vậy, kẻ mạnh lúc nào cũng ức hiếp kẻ yếu, huống hồ chi Trung Quốc lớn hơn và dân số đông hơn nước ta biết nhiêu lần (nếu Nhật mà gần với Trung Quốc như nước Việt Nam chúng ta thì lịch sử của Nhật cũng không giống như ngày hôm nay), và Pháp thì mạnh hơn nước ta biết bao vào lúc ấy. Ðiều đáng nói là nhờ cái tinh thần tự hào dân tộc của ông cha ta mà nước ta đã không trở thành một Tibet hay một Tân Cương của Trung Quốc, và chúng ta là con cháu thì phải noi theo cái tinh thần đó.

Lê Quang

-------------------------------

Trảlời của dchph


Happy Easter!!!

Thângởi bạn Lê Quang:

Trướchết tôi có đôilời khenngợi và thánphục tháiđộ và tưcách của bạn, nóicósách và máchcóchứng, giữvững quanđiểm của mình mộtcách hiểubiết của ngườicóhọc. Và đây đúnglà một tháiđộ tựtrọng và liêmsĩ của một ngườitrithức, sĩphu, không hồđồ ănnói bậybạ.

Tôi hoàntoàn đồngý tấtcả những dẫnchứng và những lýlẽ cùng sựsuynghĩ của bạn về tínhchất tiếngViệt và chữviết của tiếngta qua các thờiđại, trongđó có vaitrò tíchcực của Quốcngữ là nó đã gópphần vào côngcuộc pháttriển và gầydựng vănhoá nướcnhà.

Quảđúng là ngàynay (khoảng 50 năm trởlại đây) do những kếtquả nghiêncứu của nhiều nhàngữhọc phươngTây, đạiđasố những nhànghiêncứu tiếngViệt đều tintheo những ýkiến đó và cholà tiếngViệt và tiếngMiên là cùng thuộc ngữhệ NamÁ (Austroasiatic)... ngoài những tiếngnói thuộc vùng ÐôngnamÁ còn có nhiều ngônngữ khác từ Mãlai, Polynesian, Namdương, thổdân Ðàiloan, chođến Philuậttân... nhiềulắm. Thựcra bạn khôngcần phải dẫnchứng từđiển báchkhoa, vì sách nầy không chuyênmôn chỉ lặplại những kếtluận chung của những nhàchuyênmôn khác nói, sáchvở trong thưviện về vấnđề nầy thì khỏinói, chỉ cần lênmạng tìmđến những website về ngônngữhọc của các việnđạihọc và việnnguônngữ trên thếgiới là cóthể tríchdẫn những điều bạn đưara.

Nhưng đó cũng chỉlà một trong những giảthiết, sứcthuyếtphục của chúng là được đasố người thừanhận lấy làm tiềnđề cho những khảocứu vềsau. Dĩnhiên là mình cũng cóthể đưara giảthiết khác nếu mình thấy nó khôngphảivậy và có những luậncứ đáng tincậy riêng của mình. Cánhân tôi hiện đang làmnghiên cúu về vấnđề nầy, nhưng bậnviệc mưusinh, bỏdỡ đã khálâu, chắc cũngphải mộtvài năm nữa mới hoànthành.

Tôi nghĩlà chúngta có thể xếp tiếngViệt vào ngữhệ Hán-Tạng vì những lýdo sau:

- TiếngViệt nguyênthuỷ cóthể là một ngônngữ đơnâmtiết, mặcdù có sựhiệndiện của những từkép cơbản cóthể xem là thuầnViệt (vì chođếnnay vẫn chưacóthể truynguyên ngưồngốc chung của chúng) nhưlà mỏác, màngtang, bảvai, đấugối....

- Trái với luậncứ, sosánh, và tríchdẫn của những nhàngữhọc phươngTây chođếnnay, theo những kếtquả nghiêncứu và tìmtòi của tôi, nhiều từ cơbản trong sinhhoạt đờisống thườngnhật trong tiếngViệt mang nhiều điểmchung với những ngônngữ thuộc ngữhệ HánTạng, mà trongđó tiếngHán là tiếng dễ cho ta tưliệu để nghiềnnghẫm và sosánh vì tínhđơnâmtiết nguyênthuỷ của loại văntự này (đã có nhiều côngtrình nghiêncứu về mốitươngquan Hán-Tạng, nếu Hán giống Tạng, ta giống Hán, thì ta phảilà cùng dòng với Tạng vậy, saolạilà NamÁ?): ăn, uống, đi, đứng, chạy, ngủ, đụ, iả, đái, hôn, thương, khóc, cười, đánh, té, cha, mẹ, anh, chị, cô, dì, chú, bác, cậu, mợ, mắt, mặt, lá, lửa, đất, trời (giời), mây, mưa, gió, nắng, lạnh, luá, mạ, ruộng, đồng, trồng, gà, vịt, chó, cọp, voi, nhà, cửa, bếp, bàn, ghế, giường.... Ởđây vì lýdo khônggian và thờigian hạnhẹp khôngchophép tôi chứngminh trìnhbày ởđây, và khôngkhéo lại sẽ cóngười ngứa mắt bảo tôi lắmlời, nói dôngdài mà chẳng thuyếtphục được ai, chỉvì họ khôngmuốn tìmhiểu về lãnhvực nầy. Về vấnđề từ Nôm cơbản có gốcHán, tôi đã sưutập đủ chứngcứ để điđến kếtluận là những từ cơbản trong tiếngViệt có cùnggốc với tiếngHán....

Bấtcứ tiếngnói của một dântộc nào dù thôsơ đếnđâu từ thuở khaisinhlậpđịa đều phảicó từ cơbản của nó, khôngthể vaymượn được. Vậy mối tươngđồng của những từ cơbản giữa hai thứtiếng Hán- Việt nầy bắt ta phải suynghĩ nguyênnhân và lýdo tạisao?

- Tấtcả những đặctính ngữhọc (cấutừ, vănpháp, ngữnghĩa...) của tiếngHán, tiếngViệt đều có... hai thứtiếng nấy gầngũi như những mốiquanhệ giữa các phươngngữ Hán, hay giốngnhư mối quanhệ giữa tiếngÝ, tiếngTâybannha, tiếngPháp... vậy.

- Mốiliênhệ của những từ cơbản không đồngnhất trong các ngônngữ hệ Mon-Khmer, vì có mộtsố từ tiếng nầy giống tiếng kia, nhưng không đồngloạt trong mốitươngquan mộtđốimột (Hán <--> Tạng, Hán <--> Việt), chỉ cóthể sosánh trên tươngquan tiếngViệt và đồngthời nhiều thứ tiếng thuộc ngữhệ Mon Khmer. Sựkiện nầy khôngkhỏi gợi chota ýtưởng là có sựvaymượn lẫnnhau.

Sựvaymượn lẫnnhau giữa các dântộc lânbang thường là từ ngônngữ của dântộc nào mạnh là ảnhhưởng của ngônngữ đó lantràn đến ngônngữ của dântộc khác yếuhơn. Ðây cũnglà điều tựnhiên. Tuynhiên cũngcó trườnghợp ngượclại (thídụ: chó, voi, sông, chuối, bắp, soài, trầu... là những từ của các dântộc phươngNam gốc BáchViệt hiệndiện trong tiếngHán.)

Dĩnhiên giảthuyết nào cũng sẽ có người đảphá phảnbác nếu họ không cảmthấy thấy đúng nhưng nếu muốn phảnbác thì phảicó hiểubiết về lãnhvực nầy. Và có nhưvậy chúngta mới tìmra chânlý sựthật của vấnđề. Nhưng rấttiếc, như bạn đã thấy đấy, cóngười nói khônglại vìhọ chẳngcógì để nói, là dỡthói cônđồ ápđảo thoámạ, đòi đuổiđầu đuổicổ người không đồngýkiến và quanđiểm với họ. NgườiViệt mình khôngít người dỡ ởchỗ là chưa nghe hết quanđiểm ngườikhác là đã phảnbác ngay dùcho ýkiến đó đúng hay sai, và nếu có quyềnuy (nhiềunghĩa) và không đồngý thì lậptức cảvúlấpmiệngem. Tôi dámchắc với bạn là nhiều người chốngđối ýkiến của tôi chưahề đọc quá nửa bài tôi viết để hiểu tôi nóigì, bạn tin nhưvậy không?

Trởlại vấnđề nguồngốc tiếngViệt, điểm quantrọng về một ngônngữ là tínhchất và tínhcách của nó hơnlà nguồngốc "đíchthực" của nó, vì phải nói rõ là xét trên quanđiểm nào, vào thờiđiểm nào, vì tấtcả ngônngữ trên thếgiới quira thì cùng gốc Phichâu cả, giốngnhư nguồngốc nhânloại vậy. Cũng giốngnhư địnhnghĩa về ngườiHán hay ngườiViệt vậy (tôi nghĩlà bạn rõ về vấnđề nầy rồi -- ngườiHán đời Châu, đời Tần khác với người Hán ngàyyay, ngườiViệt thời Haibàtrưng khácvới ngườiViệt ngàynay.) Nếu 95% từvựng (kểcả từ cơbản) tiếngViệt có mối quanhệ mậtthiết với tiếngHán, thì những quanhệ íthơnnhiều của những ngônngữ Mon-Khmer với tiếngViệt thì làmsao ta phải chấpnhận giảthuyết gốcNamÁ của tiếngViệt? Từđiển báchkhoa nóivậy vì họ căncứ vào những kếtquả nghiêncứu được nhìnnhận chođếnnay -- như nếu ta có luậncứ cđưara một giảthiết mới ta tinlà đúnghơn thì tạisao ta không đưara để mọingười cùng bànthảo. Tưtưởng cho rằng có ngônngữ tiếntiến và có ngônngữ lạclậu là một tưtưởng phảnđộng và kỳthị (discriminatory and reactionary), nhưng nếu đã nhậnthấy khôngthểnào có ngônngữ đơnâmtiết thì cứ bảo ta tinvào lờinói đó thì làmsao tinđược. (Bạn cứ thử làm contính xem tiếngViệt có cảthảy baonhiêu từ đơnâmtiết?)

Bảnchất và tínhcách của tiếngViệt là rấtgần với tiếngHán, tiếngTạng, hay ngônngữ nào ngàynay thuộc ngữhệ Hán-Tạng đều đã trởthành ngônngữ đaâmtiết, tiếngViệt cũng chẳng lệngoại. Cáchphântích đơnâmtiết của mộtsố người là dựa trên tínhhoànchỉnh của từng âmtiết trong những thứ tiếng nầy, nghĩalà nó mang ýnghĩa đơnlập, và từ đaâmtiết là do những âmtiết đó cấuthành, giốngynhư quanđiểm của bạn đưara. Ởđây việc tranhluận giữa quanđiểm của bạn và tôi bị mẫuthuẩn ởchỗ là cái địnhnghĩa banđầu: từ đaâmtiết là gì? Từ đaâmtiết trong tiếngViệt có nhấtthiết phải giống các thứ tiếng ẤnÂu không?

Dođó, bạn cólý của bạn và tôi cũng cólý của tôi. Nhưng suychocùng tôi và bạn đều yêu tiếngViệt cả, nếukhông hơiđâu mà bântâm thắcmắc chi làmcho ngườikhác ghét mình?

Về chuyện bạn hạmthích học tiếngHán, tôi nghĩ là bạn nên, và tôi đoánchừng là bạn đã biết ítnhiều về thứ tiếng nầy. Tin lời tôi, mộtkhi mà bạn đạtđến một trìnhđộ "cảmnhận" được thứ ngônngữ nầy (tiếng Quanthoại) cólẽ bạn sẽ cólúc bạn "ngộ" bậtngười nhậnra tự thấy saomà tiếngViệt và tiếng Hán giốngnhau thế! Tự thốt làvì bạn còn phải thuyếtphục ngườikhác, vì họ sẽ khôngtin. Cóthể bạn cũng chưa tin, nhưng ítra, kháchquan mà nói nghiêncứu về tiếngViệt mà khôngbiết tiếngHán, giốngnhư những nhà nghiêncứu âm Háncổ màkhông nghiêncứu tiếngVIệt, thì côngtrình của họ sẽ có một thiếusót lớn. Cáisailầm của nhiều nhàngữhọc phươngTây là nằm ở chỗnầy: chỉ sosánh tiếngViệt (kho từ cơbản) với các thứ tiếngnói thuộc ngữhệ Mon-Khmer khôngthôi rồi đưara kếtluận như ta đã biết thì cáitạihại của những lờinói đó đếnnay đã làmcho baonhiêu nhàngữhọc tiếngViệt tinlà nhưthế đã trên nửa thếkỷ và sẽ còn kéodài hơn nữa. Những ngườitrẻ có tâmhuyết như bạn, chắcchắn sẽ tìmtra chânlý một ngày rất gầnđầy.

Cầuchúc bạn thànhcông trênđường họchỏi và nghiêncứu.

dchph

-----------------------

n.tan@xxx.ca
by Tân Việt   

Riêng chuyện chínhtrị thì đànhrằng có những linhmục "thôngđồng" với Pháp, nhưng ngượclại, ai dám nghĩlà ngườiPháp đã không mướn những người "sưsãi yếulòng và thamlam" làmtaysai hay mậtthám cho Pháp để theodõi bắtbớ những ngườiáiquốc? 

Giảsử nếu làm thốngkê những người làm "taysai" cho Pháp, thì tôi tinrằng số người Cônggíáo còn ít hơn nhiều sovới Phậtgíáo! Nếu chúngta nghiêncứu kỷ lịchsử thìthấy Trunghoa từlâu vẫn gởi giánđiệp độtlốt nhàsư hay thầy đicoi "địalý" để xâmnhập vào VN, dùng vàngbạc để muachuộng giới quanlại caocấp ở Việtnam hòng kiểmsóat "đìnhthần" và dothám tintức. 

Cônggíáo VN tuy chỉcó 10-15% phầntrăm dânsố, nhưng cũng là một bộphận của dântộc. Trong chuyện có lợi cho cả quốcgia dântộc như thayđổi cáchviết chữViệt, thì tôithấy không cầnthiết và sẽ khôngcólợigìcả nếu "vôtình" làm mấtlòng họ. Dù với dụngý gì, thì kháchquan mànói, Ông ÐắcLộ cũng là người có công khaisinh ra chữquốcngữ chúngta. DânViệtnam phải ghinhận"cônglao"của ôngta! chodù phải chỉtrích ông trong những việclàm "xấu" khác, nếucó! Ngaycả những thiếusót mà chúngta thấy hômnay, cũng khôngthể trách ông được, vì cáchđây đã gần 350 năm! và Âuchâu thờiđó cũng chưa "vănminh" hơn ai! 

Tómlại tôi chỉ cóthể nói, vấnđề ngônngữ và vănhóa, trong trườnghợp nếuvì tươnglai của cả dântộc, phải đứngtrên và đứngngoài chuyện đấutranh chínhtrị núp dưới dạng tôngíáo của các phenhóm (mà chínhquyền VN có nhúngtay vào khôngnhiều thì ít, trong ýđịnh muốn vôhiệuhoá các thếlực tôngíao ở hảingọai hiệnnay đang chốngđối!?) 

--------------------------------------------------

Hoanho ykien suadoi tiengViet, toi xin gopy (16/12/01)

Kinhthua cac anhchi,

Tukhi ra ngoaiquoc 27 nam qua toi cung da nhanthay suvoly tiengViet va cung da tung hohao suadoi nhu quyvi. Mot dieu khongcogi lam hanhdien la ngayxua Alexandre de Rhode sangtao chuviet VN de giangdao, trinhdo vanhoa cua ongta va nhung nguoi VN hoptac khong cao, hauqua tieng Viet co nhieu diem phily ve cachviet cungnhu danhdau. Voi danso 80 trieu, su phipham chuviet nay la thiethai tolon ve phuongdien nhancong va giaymuc, giasu neu moinguoi VN tietkiem duoc 10 phut va 1/10 giay va muc thi nhan len 80.000.000 quy vi se thay giatri duoc tietkiem hangnam, va maimai. Toi xinphep gopy suachua ve dau va motso chu cua mot cauvan cua quyvi nhusau:

HIẸNTRẠNG CỦA CACHVIÉT TIÉNGVIẸT (HIỆNTRẠNG CỦA CÁCHVIẾT TIẾNGVIỆT) xin bỏđi các dấu ^, dau ' o chu "cach", vì khôngcầnthiết, mấthìgiờ, giảndịhoá dấu tiếngViệt.

Thay chữ d cho chu dd, chu f cho chu ph, dung chu z thay chu d, bo chu h trong gh.

Hiennay nhoco internet chungta co phuongtien de suadoi tiengViet dedang hon, tieng Viet la mot trong 15 ngonngu lon nhat thegioi, duoc noi o nhieu quocgia (dacbiet noi co nguoi VN cungu), nhieu nguoi ngoaiquoc khapthegioi dang hoc tiengViet de giaotiep (toi hien dang day tiengViet tai truong caodang sinhngu cho nguoi datrang Canada, ho phai tragia 30 dola cho moi giohoc). Voi tiemnang va tuonglai tuoisang cua dantoc VN, tiengViet canduoc tuchinh de dapung nhucau quocnoi va quocte. Chungta hay manhdan thucday chuongtrinh vocung huuich nay, xin quyvi lienlac voi bogiaoduc va cac baochi trongnuoc, cac daihoc, trunghoc, sinhvien, hocsinh de phobien chuongtrinh suadoi tiengViet.

Thanai chao cac anhchi.

N. Tan

-----------------------------------

Y kien ve viec cai cach tieng Viet!

Date: Thu, 05 Feb 2004 13:10:46 +0100
From: "Truong An Phong" <truong-an.phong@statkart.no> Add to Address Book
To: dchph@yahoo.com
Subject: Y kien ve viec cai cach tieng Viet!


Xin chào VNY2K,


Là một người Việt nam, tôi thật sự ngưỡng mộ và trân trọng các ý tưởng và mục tiêu cải cách Tiếng Việt của Diễn đàn. Diễn đàn đã thể hiện một tinh thần trách nhiệm lớn đối với dân tộc Việt.

Tôi là một người làm công tác kỹ thuật, ngôn ngữ học không phải là sở trường của tôi cũng thấy mình có trách nhiệm với sự phát triển của Tiếng Việt.

Theo tôi không phải chỉ có thể hiện tinh thần trách nhiệm thôi là đủ mà cần phải xem xét một cách cẩn thận các vấn đề, tránh việc nói quá nhiều rằng cái này sai, cái kia đúng vì chỉ có thực tế mới trả lời được cái nào tốt hơn.

Trở lại lịch sử của chữ Quốc ngữ, ta đã thấy dân tộc Việt đã chấp nhận chữ Quốc ngữ nhờ vào tính hiệu quả của nó, trong khi mục đích ra đời của chữ Quốc ngữ (ban đầu) không phải là để cải cách Tiếng Việt mà chỉ để người nước ngoài học Tiếng Việt.

Tôi muốn góp một số ý kiến nhỏ để diễn đàn có thể để ý và tham khảo một số vấn đề khi cải cách cách viết như Diễn đàn đã đề xuất:

- Sẽ gặp sự khó khăn trong việc đọc chữ đối với người không biết Tiếng Việt:

VD: chữ "từngữ" ta sẽ đọc là "từng ữ" hay "từ ngữ" hay "từn gữ"? cả ba cách đó đều có thể đọc thành chữ nhung chỉ có người biết Tiếng Việt hiểu rằng chỉ có từ ngữ là có nghĩa. Và khó khăn này cũng gặp phải khi tra từ điển. Do cach ghép từ nên việc bùng nổ số lượng từ trong từ điển rất lớn. Bài học này ta cũng có thể thấy ở Tiếng Nauy, cùng hệ với Tiếng Đức (và họ cũng viết từ ghép bằng cách nối tất cả các từ cũng như ví dụ Tiếng Đức ma Diền đàn đã đưa ra) . Chính người Nauy cũng phải thừa nhận điểm hạn chế này.

- Nếu để ý thì mọi người sẽ thấy rằng trong Tiếng Việt có rất nhiều từ gốc Hán, hay còn gọi là từ Hán-Việt, mà phần lớn là các từ chỉ các khái niệm trừu tượng. Chuyện đó là bình thường vì trên thế giới cũng rất nhiều ngôn ngữ mượn từ của ngôn ngữ khác. Nó thể hiện sự khác nhau trong trình độ phát triển của ngôn ngữ. Ví dụ: Hạnh Phúc, Xã hội, khốn nạn.... Có nhiều từ đã bị biến đổi ý nghĩa trong quá trình lịch sử (ví dụ như chữ "khốn nạn") và nếu cải cách như ý kiến của Diễn đàn thì người Việt nam sẽ gặp khó khăn trong việc đọc lại các tài liệu lịch sử.

- Sự sáng tạo trong Văn học Việt nam có rất nhiều hình thái, nhưng trong đó có một cách là hóan đổi thứ tự các chữ để tạo ra những khái niệm trừu tượng mà không tạo ra từ mới. VD: "tím chiều hoang..", "giọt nắng...". Vậy liệu cải cách như Diễn đàn có hạn chế đi các sáng tạo đó? Điều này theo tôi cần phải xem xét kỹ.

Đó là một số ý kiến của cá nhân tôi về phương pháp cải tiến Tiếng Việt.

Theo tôi, Diễn đàn cứ đưa ra giải pháp, mọi người có thể tham gia góp ý rồi cải tiến dần còn việc chấp nhận là của cộng đồng.


Thân chào,
Trương An Phong.

x X x

Góp ý về bài viết "Cải Cách Tiếng Việt" của Tâm ÐoànViệt

Ngườiviết: Nguyễn Phước Ðáng

Tôi ngán ngẩm, bi quan về chuyện cải tiến chữ Việt bằng cách viết dính chùm, nên từ khá lâu tôi không quan tâm đến nó nữa. Mới đây, bổng tôi nhớ lại, muốn biết xem bây giờ chuyện viết dính chùm đi đến đâu rồi, tôi bèn mở www.vny2k.com lên xem. Tôi đọc được bài mới "Cảicách TiếngViệt: Xâydựng Chữviết và Lốiviết TiếngViệt Tânđại cho Người Việtnam" của tác giả Tâm ÐoànViệt. Tôi cảm hứng viết bài nầy.

Bài viết của ông Tâm ÐoànViệt viết bằng tiếng Việt tân đại, từ ngữ kép viết dính liền, máy computer đếm được 26.015 chữ. Chắc máy đếm chữ dính chùm là một. "Xâydựng chữviết và lốiviết tiếngViệt tânđại", máy đếm được 6 chữ chứ không phải 11 chữ như thông thường nhiều người viết hiện nay. Vậy đem xé rời các chữ ông Tâm ÐoànViệt viết trong bài, thì chắc máy đếm dám lên đến cả 50.000 chữ. Năm chục ngàn chữ kể ra cũng khá dài, nhưng cũng chỉ dài trong khuôn khổ một bài viết biên khảo mà thôi, chứ chưa như là một cuốn sách. Vậy mà ông Tâm ÐoànViệt ghi ra đầy một trang mục lục cho bài viết đó.

Theo mục lục, bài viết chia ra làm 4 phần và lời kết. Phần thứ hai có 2 vấn đề. Vấn đề thứ hai có 4 tiểu mục.

Phần thứ nhất, tác giả kể ra theo thứ tự thời gian trước sau, chữ viết dùng trong ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam: chữ Hán, rồi chữ Hán và chữ Nôm song hành. Sau cùng là chữ quốc ngữ cho tới bây giờ. Tác giả khen chữ Hán vừa ghi được hết lời nói của dân Tàu (Trung quốc) vừa biểu ý, nhìn mặt chữ mà biết ý nghĩa của chữ. Ông nhận định thêm: Nhờ tính biểu ý đó giúp trí tuệ người Tàu tiến bộ để trở thành những con rồng Châu A¨. Nhưng chữ Hán không thích hợp cho dân Việt, vì nó không ghi hết được tiếng nói gốc Việt (thuần Việt). Người Việt có bổ sung khuyết điểm đó, bằng cách chế tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói thuần Việt. Nhưng chữ Nôm chưa hoàn chỉnh. Vả lại muốn đọc được chữ Nôm thì phải thông chữ Hán. Hai khối lượng chữ Hán và chữ Nôm làm cản trở trí tuệ và tiêu hao năng lực dân Việt. Chữ viết quốc ngữ là vị cứu tinh cho dân tộc Việt. Xin trích một đoạn của tác giả:

"Hệthống chữQuốcngữ đã ghilại và thểhiện tiếngViệt mộtcách hoànthiện đầyđủ, chuẩnxác thậtsự dễ học dễ nhớ để đọc thông viết thạo, thaythế cho hệthống chữ Hán-Nôm khổnglồ, phứctạp cựckỳ khóhọc, khó nhớ. Chúngta vôcùng cảmkích, biếtơn những người có công sánglập và truyềnbá chữquốcngữ để dântộc ta có điềukiện thuậnlợi cho mọi tầnglớp nhândân tiếpxúc với ánhsáng trithức mộtcách rộngrãi trên toàn đấtnước như ngàynay."

"... dântộc ấy đã thựchiện một sựthayđổi lớnlao có tầmquantrọng vĩđại là thaythế bộchữ Hán-Nôm vốn đã lạchậu ngày càng trởnên cảntrở sựpháttriển của dântộc bằng hệthống chữLatinh khoahọc, nềntảng trithức của các quốcgia vănminh hiệnđại nhất thếgiới..."



Cho đến chừng mực đó thì chả có gì lạ để góp ý. Nhưng ông Tâm ÐoànViệt nhận định thêm:

"... Tuynhiên do thiếu tính biểuý của chữviết nên nềngiáodục chữQuốcngữ hiệnnay khôngthể tránhkhỏi mộtsố tồntại và hạnchế nhấtđịnh như :

· Tìnhtrạng và chấtlượng giáodục còn thấpkém chưa đápứng được các nhucầu đòihỏi của thờiđại.
· Hiệuquả tiếpnhận kiếnthức của họcsinh chưa cao, tìnhtrạng họcvẹt quaycóp, gianlận trong thicử có
xuhướng ngày càng phổbiến.
· Khảnăng độclập tưduy, sángtạo của họcsinh hạnchế, thiếu tínhchủđộng, tự tìmtòi, suynghĩ trong họctập biểuhiện ở tìnhtrạng họcthêmhọcnếm trànlan, họcsinh tiếpthu bàivở mộtcách thụđộng, sựdạy và học mang tínhchất một chiều thầy đọc trò chép.
· Những hạnchế trong việcdạy và học dẫnđến nhiều hiệntượng tiêucực như: mua điểm, mua bằng, thi kèm, thi hộ, bằng giả, chứngchỉ giả... làm nhứcnhối xãhội."

Những hạnchế trên chỉ là những hiệntượng mang tínhchất thờikỳ, tấtyếu phải trảiqua trong giaiđoạn khởiđầu, chuyểnmình bướcvào thờiđại vănminh, tươisáng của người Việtnam....”

"... Nhưvậy những hạnchế, nhứcnhối trong nếngiáodục chữQuốcngữ hiệnnay là hiệntượng tấtyếu, mang tínhchất thờikỳ do ảnhhưởng của các tàndư vănhóa Hán-Nôm kéodài hàng trăm năm (câunệ sựnômna phứctạp và kiểudạng chữviết từng âm truyềnthống) khôngthể xoábỏ trong phútchốc mà phảicó thờigian tinhlọc, loạitrừ và hoànthiện lâudài.

Ngoàira còn do chúngta chưa thựcsự nhậnthức đúngđắn, chưa khaithác hết ưuđiểm của hệthống chữLatinh tạo điềukiện tốiđa cho sựpháttriển trítuệ của người Việtnam."



Vì đoạn trích dẫn trên, tôi xin góp ý về phần thứ nhứt của tác giả:

Tác giả viết đầy 2 trang giấy lớn có ca ngợi chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, có chỉ ra chỗ kém của mỗi thứ chữ (Khuyết điểm của chữ Hán, chữ Nôm thì mọi người đều thấy biết. Còn khuyết điểm của chữ quốc ngữ mới chỉ là trong tưởng tượng) để rồi ông đưa ra 2 điều để làm nền tảng cho chuyện cần phải thay đổi cách viết chữ quốc ngữ:

1) Chữ Việt viết rời làm mỗi chữ vô nghĩa, từ đó làm ngăn trở trí tuệ người Việt.
2) Chữ Việt viết rời làm cho nền giáo dục hiện nay của đất nước tồi tệ (4 điểm tồi tệ).

Chữ quốc ngữ có 6.000 chữ đơn ứng với 6.000 tiếng đơn người Việt nói ra, không đủ để diễn đạt hết ý nghĩa người ta muốn nói, nên sanh ra chuyện một chữ có nhiều nghĩa. Nói cách khác, dùng một chữ đặt tên cho nhiều thứ trên đời. Chỉ có một chữ "thông" mà nó có nhiều nghĩa, cây thông khác thông thái, khác thông hơi... (Lật từ điển ra thấy vô số chữ có nhiều nghĩa như vậy) Chữ Tàu có cái ưu điểm là mỗi chữ tuy đồng âm, nhưng viết ra, mỗi chữ có mặt chữ khác nhau. Thấy mặt chữ là người ta biết chữ thông đó có nghĩa là gì. Chữ Tàu có tính biểu ý là vậy. Cái gì làm cho chữ Tàu biểu ý? Chữ Tàu có mấy trăm bộ chữ ghi kèm theo phần chánh của chữ. Biết âm của phần chánh, nhìn bộ chữ kế bên, người ta có thể hiểu được nghĩa của chữ đó (Có thể không cần lật từ điển) Chữ quốc ngữ không có khả năng đó. Chữ "thông" đứng một mình không phải là vô nghĩa, nó có 3- 4 nghĩa, nhưng chưa xác định được nghĩa nào, mình phải nhìn trước xem sau xem nó kề cận chữ nào. Thấy chữ phía trước là chữ "cây" hay "rừng" hoặc "ván", thì biết ngay "thông" đó là một loại cây, một loại gỗ. Thấy phía sau có chữ "hơi", chữ "ống cống" thì biết "thông" đó là làm cho thoáng hơi, thoáng ống cống... Tôi viết ra để phân tích thì chậm chạp chứ cái công việc để xác định chữ "thông" nghĩa là gì thật nhấp nháy, nhanh như tia sáng, nếu từ trước ta biết nghĩa của tiếng "thông". Một người ngoại quốc học biết đọc chữ Việt rồi, chưa biết nghĩa tiếng "thông" nào hết mà nhìn mặt chữ "thông" thì vô phương hiểu nghĩa. Nó không tượng hình, biểu ý gì cả. Bạn có viết "câythông", "thônghơi", "thôngthái" thì những chữ dính chùm đó cũng chả giúp họ hiểu được ý nghĩa gì cả các chữ đó, nghĩa là các chữ dính chùm, mà bạn gọi là chữ đaâmtiết, không có biểu ý gì cả. Viết rời hay viết dính liền, chữ Việt đều không có chỗ nào có dấu hiệu biểu ý hết.

Tóm lại, những ai nói rằng chữ viết rời là chữ vô nghĩa, chữ viết dính liền là chữ biểu ý, theo tôi, đó là viết theo tưởng tượng của mình, viết theo áp đặt của mình. Làm một thí nghiệm nhỏ: Một người học chữ Việt đến khả năng đọc thông được chữ quốc ngữ (Cỡ lớp Hai, lớp Ba) nhưng chưa biết nghĩa các chữ "lập, trình, viên", thì khi gặp 3 chữ rời "lập trình viên" hay 2 chữ dính liền "lậptrìnhviên" họ đều bí, không biết nghĩa là gì. Vậy chữ viết rời hay chữ viết dính liền không có tác dụng gì để làm người khác hiểu ý nghĩa của một từ. Nói cách khác, chữ quốc ngữ là thứ chữ ghi âm, không cách nào làm nó trở thành thứ chữ biểu ý được.

Nhận định "chữ viết rời là vô nghĩa" là nhận định sai. Tôi nhắc lại chữ viết rời khả dụng nào cũng có nghĩa. Chữ quốc ngữ (và tất cả các thứ chữ khác cũng vậy) có nhiều chữ viết rời có nhiều nghĩa, nếu nó đứng một mình thì mình không xác định được nó nghĩa gì. Nếu nó đứng trong câu thì chỉ cần một chớp mắt là xác định được nghĩa của nó. Một tác giả, ông Ðoàn Xuân, cho rằng 2 chữ gần nhau mà có dấu gạch nối ở giữa thì cái gạch nối đó làm đống băng nghĩa của 2 chữ rời đó, nghĩa là, nghĩa của 2 chữ đó không dời đổi, dù mỗi chữ có nhiều nghĩa. Từ đó, ông Xuân kêu gọi nên viết có dấu nối các từ kép. Công dụng của dấu gạch nối đúng là như vậy trong việc tạo từ. Chữ Việt không có bộ chữ, nên nhìn vào một chữ có nhiều nghĩa, không ai có thể phân định được nó nghĩa nào, tiền nhân nghĩ ra cách cột trói 2 chữ lại để 2 chữ đó tự xác định ý nghĩa của mình, mà không chạy qua ý nghĩa khác. Bây giờ, những người chủ trương viết dính liền nhằm nhiều mục đích hơn tiền nhân dùng dấu gạch nối. Ngoài chuyện tạo từ kép, ông Nguyễn Cường còn cho thấy chữ dính liền làm cho trí óc người đọc nhanh hơn, vừa thấy mặt chữ đoạn đầu( chưa cần đọc hết ra tiếng thì đã có ý niệm chữ đó có ý nghĩa gì rồi!) Người dùng computer để viết cũng nhanh hơn, vì khỏi gõ 1 hay 2 space. Viết nhanh hơn, đọc nhanh hơn, vậy tiết kiệm được nhiều thì giờ hơn. Thì giờ tiết kiệm đó dồn lại để mỗi người học thêm thì trí tuệ sẽ trí tuệ hơn, làm kinh doanh sẽ có lời nhiều hơn bằng thì giờ có thêm, bằng trí tuệ cao hơn... Chưa nói, chữ dính liền tương ứng với chữ nước ngoài, sau nầy máy sẽ dịch dễ dàng, không sai (tôi thí dụ: tiếng Anh có chữ "university" mình viết dính liền "trườngđạihọc" thì dễ cho máy dịch) Những điều ông Nguyễn Cường làm nền tảng để hô hào viết chữ dính liền nghe ra có khoa học hơn ông Tâm ÐoànViệt, nhứt là ông Nguyễn Cường viết từ tốn, khẳng định nhưng khiêm cung. Ông Nguyễn Cường tính ra được bằng thí nghiệm (ông viết vậy) số thì giờ li ti sai biệt giữa đọc và viết 2 chữ rời với 2 chữ viết liền. Ai tin những điều ông Cường viết thì dễ được thuyết phục để viết dính liền như những nhà cải cách tiếng Việt kiểu đó. Nhưng, theo tôi, tiếc thay, có quá nhiều người chưa tin. Nhứt là người ta không tin tiết kiệm được ngần ấy thì giờ thì trí tuệ mình sẽ khá hơn. Ði chơi cuối tuần, nhởn nhơ sóp-binh, tán gẫu với bạn, nhậu lai rai... nuốt một hơi cả tháng, cả năm dài số thì giờ tiết kiệm được đó!...

Ông Tâm ÐoànViệt kê ra 4 điểm, mỗi điểm chứa nhiều từ để chỉ nền giáo dục tồi tệ của VN hiện nay. Ông qui trách cho chữ viết rời không biểu ý đưa đến tình trạng đó. Mời quí vị độc giả đọc lại đoạn trích dẫn ở trên. Xin quí vị có cười thì cứ cười thoải mái, nhưng xin quí vị đừng cau mày, đổ quạu, văng tục khi đọc thấy điều rất tiếu lâm như vầy:

"Do thiếu tính biểu ý của chữ viết (do chữ viết rời) nên nền giáo dục hiện nay đưa đến những chuyện học vẹt, quay cóp, gian lận trong thi cử, mua điểm, mua bằng, thi kèm, thi hộ, bằng giả, chứng chỉ giả..."

Thưa ông Tâm ÐoànViệt, ông đang ở đâu đây mà thấy ra cái nguyên nhân gây ra những tiêu cực trong nền giáo dục VN hôm nay là do chữ Việt viết rời? Ông khẳng định: Sự tồi tệ về giáo dục, về dân trí tuột dốc như trên xảy ra hôm nay trên đất nước "chỉ là những hiện tượng mang tính chất thời kỳ, tất yếu phải trải qua trong giai đoạn khởi đầu, chuyển mình bước vào thời đại văn minh, tươi sáng của người Việt Nam."

Chánh quyền, chánh thể, chánh sách giáo dục... không chịu trách nhiệm gì hết, đó là chuyện tất yếu phải trải qua, không ai chịu trách nhiệm hết! Chắc ông không thấy biết câu nói đại khái có nghĩa như vầy: "Một ông thầy thuốc sai, giết chết chỉ một người. Một ông thầy giáo sai giết hại một nhóm người. Chính sách giáo dục sai, văn hoá sai giết hại cả nhiều thế hệ của đất nước". Những điều bi quan, hư đốn xảy ra cho giới trẻ hôm nay là phát xuất từ chính sách giáo dục ở quê nhà chứ dứt khoát không phải vì chữ Việt viết rời.

Ông Lê Vĩnh viết một bài báo ngày 3- 9- 2004, với tên tựa Sự lãnh đạo của đảng là nguyên nhân của sự tụt hậu giáo dục hiện nay. Bài viết không dài lắm, nhưng không tiện đưa hết vào đây, vì sẽ làm bài nầy quá dài. Những điều được viết ra là trích từ những phát biểu của những nhà khoa bảng, trí thức, có chức, có quyền, có trách nhiệm trong nước, như các ông Hoàng Tuỵ, Dương Thiệu Tống, Nguyễn Minh Hiến, Ðoàn Văn Thái, Trần Văn Miều. Tôi xin trích dẫn một số ý kiến ghi lại trong bài viết nầy:

"Thanh niên Việt Nam đang tụt hậu từ A đến Z"

"Chỉ số chất lượng giáo dục của Việt Nam đứng hạng chót hay khá hơn là áp chót trong danh sách những nước nầy" (12 nước lân cận trong khu vực A¨ Châu)

"Sau 3 thập niên dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, nền giáo dục cả nước đã đi xuống vị trí học trò của các nước trong vùng" (Từ trước 1975, miền Nam Việt Nam thực hiện tốt đẹp một nền giáo dục vào hàng bậc thầy do Tiến sĩ khoa học Dương Thiệu Tống thiết lập cho Giáo Dục Quốc Tế. Chính Tiến Sĩ Tống phát hiện "nước đàng anh Liên Xô vĩ đại" ăn cắp một chương trình trung học kiểu mẫu, rất hiện đại đó, dịp ông được mời sang tham quan nghiệp vụ năm 1982 tại Nga)

"Các nhà giáo dục và những giới chức chuyên môn đã nêu ra rất nhiều yếu tố dẫn đến tình trạng ảm đạm nêu trên của nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là sự lãnh đạo của đảng về "tính chất hồng" của chương trình giáo dục"

"Trong 4 năm đại học thì đã có 2 năm học đại cương 'quá vô bổ', với những môn liên quan đến triết học, kinh tế, chính trị Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội, lịch sử đảng... 2 năm còn lại học chuyên ngành rất sơ sài..." (Một sinh viên cho biết như vậy)

"Nghị quyết của Bộ Giáo Dục đưa môn tư tưởng Hồ Chí Minh vào chương trình chính thức và là môn bắt buộc, khiến chương trình đại cương càng nhiều thêm mà nội dung chủ yếu vẫn xoay quanh chủ nghĩa cộng sản. Có những vấn đề cần thiết thì lại không được học mà bắt buộc học những cái không cần" (Y¨ kiến một sinh viên khác)

" Từ đó, điều không nghi ngờ gì nữa là, chính đường lối giáo dục 'hồng hơn chuyên' của đảng trong mọi cấp, tích luỹ từ hàng chục năm qua, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tụt hậu bi thảm của nền giáo dục Việt Nam ngày nay. Giải quyết được nguyên nhân này thì dần dần sẽ gỡ bỏ được những trở ngại phụ thuộc khác" (Kết luận của bài viết)

Mời ông Tâm ÐoànViệt đọc bài viết "Giáo Dục Nước Ta Ði Ðường Nào" trên Diễn Ðàn Tiếng Việt thuộc Trang nhà vny2k, ông sẽ thấy biết những nhà giáo dục chân chính ở Việt Nam nhận định về sự sa sút của xã hội, dân trí (trí tuệ) Việt Nam ra sao và do đâu (Chưa một nhà trí thức nào quy trách cho chữ Việt viết rời)

Bất cứ người trẻ nào cũng thấy, cũng biết như vậy, chỉ trừ Tâm ÐoànViệt? Tại sao?

Tôi coi những nhận định kỳ quặc của ông Tâm ÐoànViệt là lời biện minh cho chế độ bên nhà. Nhưng tiếc thay, lời biện minh, lời chạy tội đó vô giá trị, trái với mong ước của ông, nó hạ thấp phẩm cách của tác giả.

Tóm lại, hai điểm ông Tâm ÐoànViệt nêu lên, căn cứ vào đó để cổ động viết chữ dính liền là 2 điểm vô giá trị, nguỵ luận. Nền tảng sụp đổ thì còn gì để thuyết phục người khác nghe theo. Chắc chính tác giả cũng biết những gì mình viết không có chưn đứng, luận cứ của mình đứng trên vũng bùn, nên trong những đoạn sau tác giả dùng những từ, những luận điệu áp đặt, chỉ định rằng những người không chấp nhận lối cải tiến chữ Việt bằng cách viết dính liền là "bọn bảo thủ", khẳng định áp đặt rằng "duy trì chữ Việt viết rời là làm thiệt thòi, bất công đối với người tiếp nhận ngôn ngữ, tước bỏ đi cái quyền học tập, quyền tiếp nhận tri thức... đó là tội ác bẩn thỉu đáng lên án..." Ðó là những luận điệu để đấu tố!

Các bạn đang vận động để nhiều người nghe theo cách viết dính liền. Ðối tượng vận động của các bạn không phải là quần chúng nhân dân lao động, vì những người đó đâu có thèm đọc những gì các bạn viết. Ðối tượng của các bạn là những người có chữ nhà đứng phía trước: nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà ngôn ngữ học, nhà... vân vân... Vậy mà các bạn liệt họ vào "bọn bảo thủ", các bạn cho rằng hồi đó tới giờ họ làm những chuyện "tội ác bẩn thỉu", "cản trở trí tuệ", "tước bỏ quyền học tập, quyền tiếp nhận tri thức"... Toàn những lời đao to búa lớn bạn áp đặt cho đối tương bạn muốn thuyết phục. Không biết các nhà trí thức có lương tri trong nước nghe những điều áp đặt đó thì họ phản ứng ra sao. Còn các nhà trí thức có lương tri trong môi trường tự do tại hải ngoại họ nhổ nước bọt trước những lời áp đặt đó!

Phần thứ hai, Tác giả Tâm ÐoànViệt luận bàn về chuyện căn gốc của chữ quốc ngữ. Ông chia ra làm hai vấn đề:

1) Vấn đề thứ nhất, ông muốn phân biệt hệ thống chữ cái với hệ thống âm của tiếng Việt. Cách phát biểu của ông khúc mắc, rườm rà. Thật ra đó chỉ là chuyện ông muốn lấy lại cái tên cho chữ cái có từ thuở xưa: a, bê, xê, dê, đê... Chuyện nầy, riêng tôi rất đồng ý với ông, chỉ khác ý ông ở chỗ tên của 3 chữ cái ă, â và q. Từ xưa ă có tên là á; â có tên là ớ; q có tên là cu. Từ hơn sáu chục năm xa xưa cho đến bây giờ người ta lấy âm của chữ cái đặt tên cho chữ cái nên gây ra sự lầm lẫn. Người ta lấy âm tờ đặt tên cho chữ cái t... (lý ra tên của t là tê)

Nguyên nhân của chuyện tên tê trở thành tên tơ (hay tờ) là do sự cải thiện việc dạy trẻ đánh vần: Trước kia đánh vần chữ ca như vầy xê-a = ca; chữ nhe -> enờ hát e = nhe; chữ trư -> tê erờ ư = trư ... Các nhà giáo dục nhận xét thấy, lấy tên chữ cái để đọc ghép lại (đánh vần) một chữ không hợp lý, không ra được tiếng mà chữ đó ghi âm: xê+a phải ra xa, chớ đâu phải ra ca (đối với trẻ mới đi học). Người ta cho rằng đánh vần một chữ phải đọc âm ráp với âm mới cho ra giống với tiếng nói mà chữ đó ghi lại: âm cơ + ráp với âm a mới ra được tiếng ca. Ðiều nan giải là tuổi Mẫu giáo và tuổi lớp Một không đủ sức phân biệt được tên chữ cái và âm của nó: tên tê mà âm tơ của chữ cái t. Tuổi đó sẽ vô cùng bối rối trước một chữ t mà khi thì đọc là tê, khi lại đọc là tơ. Những nhà giáo dục chọn cách dễ nhứt là tạm thời bỏ hệ thống tên bê, xê, dê, đê... lấy âm bơ, cơ, dơ, đơ đặt tên cho b, c, d, đ... để tránh bối rối cho học sinh. Tôi nói tạm thời, vì học sinh lớp Bốn, lớp Năm đã biết dùng lại hệ thống tên bê, xê, dê, đê. Không có thầy trò nào dạy toán, học toán mà đọc điểm B (bê) là điểm bờ, đoạn thẳng AB (A-bê) là đoạn thẳng A-bờ. Ông Tâm ÐoànViệt thử nhớ lại xem chính bản thân ông từng bắt đầu bằng bờ, cờ, dờ, đờ... rồi chuyển qua bê, xê, dê, đê... từ lúc nào không hay, có phải vậy không? Như vậy, đặt tên chữ cái bằng âm của nó tuy quả thật là không đúng, nhưng chuyện làm đó có lý do chính đáng, và trải qua trên nửa thế kỷ nay chuyện đó cũng chưa gây tác hại nào lớn. Nói vậy cho rõ việc, chứ tôi vẫn đồng ý chuyện đừng lấy âm của chữ cái đặt tên cho chữ cái.

Chữ quốc ngữ chịu ảnh hưởng của nhiều thứ tiếng, nhưng theo tôi, nó chịu ảnh hưởng tiếng Pháp nhiều nhứt. Từ xa xưa ta lấy tên mẫu tự Pháp đặt tên cho mẫu tự quốc ngữ (trừ các mẫu tự d, e, o và mẫu tự mới chế tạo: ă, â, ê, ô, ư, đ... đặc trưng của chữ Việt ), vậy bây giờ ta cứ giữ như vậy: a, bê, xê, dê, đê,... (xin đừng ai đề nghị đổi là bi, xi, di, đi,... vì 80 triệu người đã quen a, bê, xê...) Chuyện phân biệt tên của chữ cái và âm của nó quan trọng là dành cho những người nghiên cứu chữ quốc ngữ, phân tích chữ quốc ngữ... Còn đối với đa số người khác thì không mấy quan trọng. Ngay tới chuyện viết đúng chính tả cũng tuỳ thuộc vào nhiều nguyên do khác, chứ chẳng phải vì chuyện lẫn lộn tên chữ cái và âm của nó.

Về chuyện âm của chữ quốc ngữ còn rất nhiều chuyện cần phải thảo luận với nhau. Ông Tâm ÐoànViệt đưa ra thệ thống nguyên âm, gồm có:

a) các nguyên âm đơn: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư, i, y.
b) Các nguyên âm đôi: ai, ao, au, ay, ây, eo, êu, ia, iu, iê, oa, oe, oi, ôi, ơi, ua, uơ, uâ, uê, uô, ui, uy, ưa, ưi, ưu, ươ.
c) Các nguyên âm ba: oai, uôi, uya, uyê, ươi, ươu.


Cách nghiên cứu chữ quốc ngữ của ông chịu ảnh hưởng của những nhà ngôn ngữ ngoại quốc, đếm nguyên âm trong một chữ rồi gọi là đơn, đôi (nhị trùng âm), ba (tam trùng âm).

Tôi xin đưa ra cách nghiên cứu chữ quốc ngữ của tôi:

Chữ cái là đơn vị ký âm (ký hiệu âm) nhỏ nhứt, tạo ra âm, để từ đó ráp (ghép) với nhau theo qui ước, mà tạo ra chữ để ghi lại tiếng nói. Âm là tiếng phát ra từ 1 chữ cái, hay từ 2 hoặc 3 chữ cái ghép lại theo qui ước tạo âm. Một âm hay nhiều âm ráp lại sẽ tạo ra chữ. Qui ước quốc ngữ chỉ định chánh âm và phụ âm. Chánh âm có nguyên âm và bán nguyên âm. Phụ âm có phụ âm đơn và phụ âm kép. (Trong bài nầy tôi không viết về phụ âm, vì không có gì khác biệt giữa ông Tâm ÐoànViệt và tôi)

Chánh âm gồm có: (gọi là chánh âm, vì nó là âm chánh trong một chữ, thiếu chánh âm thì không thành chữ. Gọi như vậy để đối lại phụ âm, âm ẩn, giúp thêm để tạo chữ. Âm ẩn chứ không phải âm câm)

. 10 nguyên âm (có 4 công dụng trong việc tạo chữ: đứng một mình, đứng đầu chữ, đứng giữa chữ, đứng cuối chữ) có: a, e, ê, o, ơ, ô, u, ư, i, y.

. 5 bán nguyên âm (chỉ có 2 công dụng trong việc tạo chữ: đứng đầu chữ, đứng giữa chữ mà thôi) có 2 bán nguyên âm đơn, ă, â; và 3 bán nguyên âm kép, iê (yê), uô, ươ.

Tất cả những cái ông Tâm ÐoànViệt gọi là nguyên âm kép 2, tôi gọi là vần; nguyên âm kép 3, tôi gọi là chữ ráp vần. (Có những nguyên âm kép 2, kép 3 không gọi là gì được, như uơ, uâ, uya, uyê. Chuyện nầy, tôi sẽ bàn đến trong một cơ hội khác)

Vần là gì? Hai âm (trong đó phải có ít nhứt một chánh âm) ráp lại tạo thành một vần. Một số rất lớn vần đã là một chữ, ghi được một tiếng nói. Thí dụ: ai đó, khóc oa oa, la ơi ới, ưu tư, ụa mửa... Các chữ ai, oa, ơi, ới, ưu, ụa,... là chữ, là vần chứ đâu phải là nguyên âm. Một số vần khác chưa là chữ, được tạo ra để chờ ráp với một nguyên âm hay phụ âm hoặc một vần khác để tạo ra chữ. Thí dụ: ay, ưi, ươi, uôi... chưa ghi lại lời nói nào. Nhưng vần hợp âm ay ráp với phụ âm t tạo thành chữ tay (t+ay); vần hợp âm uôi ráp với phụ âm ng tạo thành chữ nguôi (ng+uôi), vần hợp âm ya ráp với vần xuôi khu tạo thành chữ khuya (khu + ya)... Tôi gọi những chữ cấu tạo như vậy là chữ ráp vần (Có một vần rồi, đem vần đó ráp thêm âm hay vần khác vào). Xin nhắc lại vần là do 2 âm ráp lại. (Chỉ có 2 âm mà thôi, không có vần nào có 3 âm ráp lại). Vần uôi, vần ươu, vần iêu, vần uông, ương, đếm thấy có 3 - 4 chữ cái, nhưng phân tích kỹ thì mỗi vần chỉ có 2 âm mà thôi: vần uôi do bán nguyên âm uô ráp với nguyên âm i (uô +i), vần ương do bán nguyên âm ươ ráp với phụ âm ng (ươ + ng)

Tôi phân biệt có 4 thứ vần trong chuyện cấu tạo chữ quốc ngữ: Vần xuôi, vần ngược, vần hợp âm, vần hoà âm. Vần xuôi, vần ngược là vần do chánh âm ráp với phụ âm, phụ âm phía trước gọi là vần xuôi; chánh âm phía trước gọi là vần ngược. Hai nguyên âm ráp với nhau tạo ra vần hợp âm (ai, ia, oi, ui, eo, êu...) hoặc ra vần hoà âm (oa, oe, uê, uy...)

Chữ ráp vần là gì? Có một vần rồi, đem vần đó ráp với một âm hay một vần khác để tạo thành một chữ. Chữ đó là chữ ráp vần. Thí dụ: lấy vần ai đem ráp với nguyên âm o phía trước ta có chữ oai (o+ai); đem vần ai ráp với phụ âm m ta có chữ mai (m+ai); đem vần ai ráp với vần xuôi tho phía trước ta có chữ thoai, thoải (tho+ai, tho+ải)...

Không thoát ra khỏi chuyện nhị trùng âm, tam trùng âm thì không thể đem lại điều chi mới, gọn và hợp lý trong việc nghiên cứu chữ quốc ngữ. Thoát ra khỏi chuyện nhị trùng âm, tam trùng âm, tôi tìm ra được 12 cách tạo thành chữ đơn quốc ngữ. Nói cách khác, tất cả chữ đơn tiếng Việt đều nằm trong 12 cách tạo chữ mà thôi. (Chuyện nầy cũng dành cho một cơ hội khác)

2) Vấn đề thứ hai, ông Tâm ÐoànViệt phân biệt 2 công việc ghép âm và đánh vần. Ông cho biết, mọi người gọi công việc đánh vần mà thầy cô giáo lớp Một dạy học trò tập đọc từ trước tới giờ là sai, phải gọi là ghép âm mới chính danh. Ông định nghĩa: "Sựghépâm là côngviệc sửdụng hệthống nguyênâm-phụâm để tạo tiếng tậpđọc theo phươngpháp ghépâm quyđịnh đặctrưng của tiếngViệt." (Cái định nghĩa nghe thật là phức tạp)

Ông cho biết công việc đọc tên chữ cái trong một chữ mới là sự đánh vần. Ví dụ: Chữ thanh được đánh vần là tê, hát, a, enờ, hát. Sau đây là góp ý của tôi:

Từ trước tới giờ, trong ngành giáo dục chỉ xài từ ngữ đánh vần chung cho 2 công việc chứ không dùng từ ngữ ghép âm. Tôi phân biệt: đánh vần tập đọc và đánh vần chính tả (tôi còn gọi là đánh vần tắt).

Ðánh vần tập đọc là đọc sát các âm trong chữ để phát ra tiếng của chữ đó: tha -> đánh vần thơ,a (sửa soạn đọc ra âm thơ -- mà chưa thành tiếng -- ráp liền âm a vào thì ra tiếng tha); Thiết -> đánh vần vần iết trước, rối ráp âm thơ với vần iết để ra tiếng thiết (sửa soạn đọc âm thơ -- mà chưa thành tiếng...


-------------------------------------------------------

Author: Trần 

Date:   Tuesday 04-02-02 21:34 (PST)

Gửi Lê Quang và mọi người trong đề mục này!

Tôi viết bài này đã mấy hôm nhưng chưa gửi đi được. Hôm nọ thấy cách hành văn của anh thì thấy có vẻ nhã nhặn nhưng theo tôi thì nhận định vẫn còn chủ quan. Thôi thì sao cũng được! Thấy anh có tình yêu với chữ quốc ngữ, và là người đồng trang lứa với tôi. Và, thấy ông Đồng khen anh có phong thái nên tôi dựa vào lời đó mà bắt chước lối hành văn cho mọi người bớt ghét, coi như để chia xẻ một vài nhận xét để học hỏi lẫn nhau

Trước khi trả lại lời tôi xin đính chính như sau: Nhân nói cái chuyện phân biệt giữa tự và từ và vấn đề triệt dấu mà ông Đồng đưa ra về đa âm tiết, tôi ủng hộ ý kiến và chỉ thử đưa ra thử một phương pháp đối chiếu để triệt tiêu trục dấu, nhưng vẫn giữ quy ước sẳn có của nếp cũ. Đó chỉ là một phương pháp cho việc cải biến. Còn sau này khi bắt tay vô thì đương nhiên phải hợp lý hóa, mỹ thuật hóa, đơn giản hóa, hệ thống hóa cho sự sắp xếp nó khoa học hơn! Cho nên, đó chỉ có tính cách tham cứu mà thôi! Không cần phải coi đó làm ví dụ so sánh.

Tuy anh có tham cứu về ngôn ngữ! Có đọc sách nhưng có lẽ chưa phân định rõ về phiên âm và văn tự. Phiên âm thì tiếng nào cũng có, không tin thì giở tự điển Anh Việt ra thì sẽ thấy bên cạnh mỗi từ tiếng Anh đều có phiên âm. Đây là phiên âm chuẩn quốc tế hầu như nhà ngôn ngữ học đều dùng thức này mà phiên âm. Ngoài ra, khi đọc sách báo Mỹ, từ nào hơi mới thì cũng có ký hiệu để người biết cách đọc. Cho nên sự khoa học trong vần tiếng Việt, chiếu theo tiêu chuẩn phiên âm chỉ là một sự sắp xếp sẳn. Chúng ta không nên bị yếu tố này đánh lận với quy ước phát triển ngôn ngữ.

Rồi thì, chữ viết Việt Nam hôm nay thì là xuất xứ từ phiên âm. Cho nên sự tâm đắc về tính hợp lý, tính khoa học, hoặc cường điệu lên là sản phẩm vô cùng giá trị, là quy tắc, là cấu trúc chính là sự chiêm ngưỡng một cách thừa thãi và cục bộ.

Hợp lý! Đúng rồi chữ phiên âm thì đã quy ước chữ o có mũ thì đọc là ô, ô với i thì là ôi chứ còn gì nữa. Nó đích thị là phiên âm chứ cho nên mọi quy ước đã được dàn sẳn từ cái nguyên âm đơn đầu tiên rồi. Bên Tàu họ quy định nguyên âm “e” đọc như âm ưa bên mình. Khi thấy chữ He họ đọc là “Hưa”, Hé thì đọc là "Hứa", Hoàng Hà thì Tàu họ phiên âm là Huánghé, mình đọc vô thì như Hoáng Hé (âm Việt) còn Tàu họ phát ra thì Hoáng Hứa (âm Tàu). Người Tàu thì đương nhiên họ cũng hợp lý theo thức của họ. Cho nên, sự chiêm ngưỡng và nghiên cứu về vần quốc ngữ là điều quá nhỏ bé. Nó chỉ tốn giấy bút và chỉ có một vai trò rất nhỏ trong việc nghiên cứu tiếng Việt. Vài ví dụ tương tự trong hệ chữ phiên âm của Tàu (Hanyu pinyin) để so sánh: Như chữ Âu-Châu chẳng hạn! Tàu phiên âm là Ou-Zhou. Người biết văn tự Latin thấy hai chữ đó thì coi như đọc cũng gần giống nhau chứ không nhiều sai biệt. Mỗi hệ phiên âm đều có cách riêng và có quy ước hệ thống thanh điệu riêng, thấy vần En mình đánh e nờ en, người Tàu đánh kiểu e (ưa) n (nứa) en (ân). Ân-Nhân = En Rén (đọc như Ân Rấn của Việt). Chẳng có gì lạ.

Nếu cách viết đơn âm tiết của tiếng Việt bây giờ không gây trở ngại cho việc thông tin thì chẳng ai đề nghị cải biến làm chi! Nhưng cách viết đơn âm như bây giờ quả thực là một sở đoản khó lòng khắc phục. Nếu không chuyển qua cách đa âm thì đơn giản nhất là không thể nào viết một nhu liệu để chuyển dịch từ tiếng Việt sang tiếng ngoại quốc được. Tiếng Việt quốc ngữ, quá mới so với văn tự thế giới, cho nên phải cải biến để khai thác ưu thế của văn tự Latin trên hệ thống thông tin hiện đại. Tính quốc hồn quốc tuý của “quốc ngữ” phải được xét lại để từ đó có một cái nhìn thật phóng khoáng mà thay đổi. Cách đánh vần hợp lý theo khẩu âm Việt chính là những quy ước đặt ra cho các nguyên âm từ ban đầu. Khi theo ký âm của tiếng mình thì hợp lý theo khẩu ngữ của mình. Mình đứng trên thềm mà tâm đắc so sánh độ cao của bậc thềm nhà với ngay vườn nhà mình thì điều tâm đắc quả là khiêm tốn trong sự cao rộng bát ngát chung quanh. Do vậy, nếu trút được xúc cảm này về quốc ngữ, văn tự Latin của Việt Nam nếu có tham vọng lớn hơn thì cũng có thể làm nền cho một ngôn ngữ lập trình điện toán vv và vv cho các yếu tố tạo từ cho các khái niệm mới phát minh, và có thể trở thành ngôn ngữ khoa học mà không cần vay mượn tiếng ngoại tứ tung.. Hiện tại, thì nó đang thiếu tính cấu trúc, thiếu khái niệm từ và tự, không định vị được ngữ pháp, cú pháp vv và vv. Người Việt Nam học xong đại học vẫn không có một khái niệm và không có gan để tạo từ cho dù có phát minh. Không dám dịch khái niệm mới khi học tiếng nước ngoài mà chỉ vay mượn tạm bợ đó
cũng do cách viết rời rạc không xác định được nguyên ngữ, tiền tố, hậu tố trong từ vv và vv. Trong lúc đó người Trung Quốc, người Mỹ họ có sở trường này ngay trong ngôn ngữ.

Trong phần tham cứu, anh có nhắc nhiều đến ngữ hệ của tiếng Việt. Có lẽ ông Đồng đã đưa ra dẫn chứng về ngữ hệ Hán Tạng. Thật sự mà nói khi phân ngữ hệ, thời đó có lẽ tiền đề đã có nhưng người Pháp đó (quên mất tên) chỉ muốn gây một sự tranh cãi bằng cách đưa ra những cụm từ như Tlum của tiếng Miên, có nghĩa là rậm rạp tương đương với chữ Tùm Lum của tiếng Việt. Đại khái những bằng chứng như vậy đem đối chiếu với ngày hôm nay không còn đứng vững. Sau đó, các nhà ngôn ngữ đều dựa vào thuyết của ông ta mà chồng chất lên. Để rồi, sau đó lấy tiền đề về chủng tộc mới sinh ra nhữnh lý luận như Bình Nguyên Lộc hoặc Nguyễn Xuân Quang sau này. Nói chi cũng không bằng dẫn chứng! Thuyết Mon-Khmer bắt đầu bị nghi ngờ. Trong một website về ngôn ngữ thế giới worldlanguage.com viết rất giới hạn, không nói tới ngữ hệ như các sách cũ nữa: “Vietnamese is spoken in both North and South Vietnam by about 65 million people. Its linguistic affiliation is uncertain, and though it is sometimes thought to be distantly related to Chinese, this remains to be proven. Like Chinese, Vietnamese is a tonal language and it has borrowed nearly half of its vocabulary from the Chinese. The Vietnamese alphabet was devised in the 17th century by Catholic missionaries. It contains a complex system of diacritical marks, some distinguishing certain vowel sounds, others indicating tone. As can be seen in the few lines below, a letter may often contain two diacritical marks.”

Còn sách Tàu thì viết như sau: 
越南語﹕系屬未明。一說屬南亞語系孟高棉語族﹐一說屬漢藏語系壯侗語族或為漢藏語系中獨立的一支。。。文字曾采用字喃﹐現用拉丁字母 (辭海)
Việt Nam Ngữ: Hệ thuộc vị minh. Nhất thuyết thuộc Nam Á ngữ hệ Mãnh-Cao Miên, nhất thuyết thuộc Hán Tạng ngữ hệ Tráng Đồng ngữ tộc hoặc vi Hán Tạng ngữ hệ trung độc lập đích nhất chi….Văn tự tằng thái dụng Tự Nam, hiện dụng La Đinh tự mẫu (Từ Hải)
Dịch: Việt Nam Ngữ: Hệ thuộc chưa rõ, một thuyết cho là thuộc hệ Nam Á, Mon-Khmer, một thuyết thuộc hệ Hán Tạng, Tráng Đồng ngữ tộc hoặc là một chi độc lập trong hệ Hán Tạng. ..Văn tự dùng qua Chữ Nôm, hiện dùng chữ cái Latin.

Tiếng Việt có một cộng đồng ngôn ngữ ở tỉnh Quảng Tây và dân tộc Kinh là một tộc dân thiểu số ở Trung Quốc nên các nhà ngôn ngữ học của Trung Quốc tìm kiếm nguồn gốc. Đa số đều kết luận thuộc hệ Tráng Đồng (Tày Nùng Thái) nhưng do cái thuyết của Tây án ngữ nên phải kết luận là không rõ là vậy. Khi nói tới ngữ hệ Hán Tạng thì xa xưa trước khi chữ Hán ra đời thì các tộc thuộc chủng Mongoloid đều có ngôn ngữ tương đồng. Qua bao biến động mới sinh ra khác biệt. Nếu quan sát thì sẽ thấy điều này. Chữ Động như Hoa Lư Động = Động Hoa Lư thật sự Hán hóa từ tiếng Nùng (Bách Việt mà ra). Thế thì, sự giao lưu Hán Việt (Bắc Nam) nếu có thì là hai chiều từ cổ đại. Hiểu rõ quan hệ này thì cần gì phải mặc cảm về ngôn ngữ, dân tộc, chủng tộc…Chúng ta có ghét người Tàu thì nên khai thác về tinh thần quốc gia, tự chủ, lãnh thổ chứ khai thác về văn hóa, ngôn ngữ, chủng tộc là điều vô ích vì không bao giờ tìm được một mẫu số chung.


Dưới đây, tôi xin biên ra cho một ví dụ minh họa để sáng tỏ đôi điều về chuyện nghiên cứu Việt ngữ. Nó quá xa xôi và thâm trầm. Nếu như mình chỉ bồi hồi ở chổ ký âm thì sự truy cứu không bao giờ đi xa được. Đây là bài thơ của Phạm Thái tiên sinh (1777-1813) theo cách Thuận Nghịch Độc, đọc thuận thì là Hán, ngược thì là Nôm:

青春鎖柳冷蕭房
錦軸停針礙點妝
清亮度蘚浮沸綠
淡曦散菊彩疏黃
情痴易訴簾邊月
夢觸曾撩帳頂霜
箏曲強挑愁緒絆
鶯歌雅詠閣蕭香

Thanh xuân khóa liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang
Thanh lượng độ tiên phù phất lục
Đạm hy tán cúc thái sơ hoàng
Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đỉnh sương
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu tự bạn
Oanh ca nhã vịnh các tiêu hương

Chữ Nôm đọc ngược (cả Hán Việt, hài thanh, giả tá…)

香蕭閣詠雅歌鶯
絆緒愁挑強曲箏
霜頂帳撩曾觸夢
月邊簾訴易痴情
黃疏彩菊散曦淡
綠沸浮蘚度亮清
妝點礙針停軸錦
房蕭冷柳鎖春青

Hương tiêu gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt bên rèm, tỏ dễ si tình
Vàng tha thướt, cúc tan hơi đạm
Lục phất phơ, rêu đọ rạng thanh
Trang điểm ngại chăm, dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.

***Ghi chú! Tôi chỉ không có bản gốc chỉ chuyển ngược từ ký âm sang nên chắc có sai sót.

Thôi thì, ngoài cái độc đáo của bài thơ trên, tinh mắt một chút thì sẽ nhìn thấy có một sự liên hệ giữa hai luồng Hán Việt và thuần Nôm như sau:

Cẩm = Gấm
Cưỡng = Gượng
Rồi từ đây mà suy ra:
Cận = Gần
Can = Gan
Cân = Gân
Cấp = Gấp
Cổn = Gợn
Các = Gác
Kê = Gà
Ký = Gửi
Kỵ = Ghét
Ký = Ghi

Rồi thì

Vũ = Múa
Vũ = Mưa
Vân = Mây

Vạn = Muôn
Vọng = Mong
Võng = Mạng

Tử = Chết
Tự = Chùa
Tự = Chữ (cái)


Cứ theo luồng chữ cái mà suy, sau bao nhiêu biến động vẫn truy được gốc. Cái lạ ở chổ các ví dụ trên phần theo chiếu theo tiếng Bắc Kinh hay Pinyin đều theo một luồng phụ âm đầu nhất định. Cho nên, như ông Đồng có nhắc, nếu cảm tiếng Tàu thì thấy tiếng Việt là như vậy!

Để kết luận trong tinh thần thật nhã nhặn cho việc cầu học trên diễn đàn này! Tôi mượn lời của một nhà tự nhiên học lẫy lừng đó là Lão Tử. Lấy nhãn quan tự nhiên mà soi xét nguồn gốc, rồi sau đó mới có thể quán chiếu chuyện riêng như văn hóa, văn tự nước nhà. Thiếu nhãn quan thì tất cả nhận xét kết luận sẽ bị bế tắc hết. Mà đã vô chổ bế rồi, thì những lập luận dù có lý thì chẳng qua là ảo ngữ do sự cố chấp chồng lên mà thành. Nói về Hán Việt, coi các ví dụ trên thì là:

此兩者出而異名同謂之玄玄之又玄眾妙之門 (Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.) Hai thứ là một chổ mà ra mà có hai tên khác, đều là huyền diệu hết, huyền diệu của huyền diệu, mới sinh ra mọi thứ (phức tạp như Hán Việt thuần Nôm đó) – Ít nhất trong lúc này, tôi nghĩ đa phần tiếng Việt ngoài Hán Việt vẫn có quan hệ với các tiếng Thái, Tày, Nùng và tiếng Trung Quốc. Nếu nói thẳng điều này, mình đâu có mất tự chủ gì mà phải cố chấp. Càng không phải dùng gắn bó mù quáng vô quốc ngữ (không chịu cải tiến) là yêu văn hóa, trung thành với văn hóa …

Văn hóa ngôn ngữ nước ta nó vời vợi thâm trầm chứ đâu chỉ đơn giản như lối lối ký âm đang biểu hiện. Nếu cứ theo ký âm mà tìm về văn hóa thì chẳng thấy được gì cả, nếu lấy ký âm mà làm điều quốc tuý thì tự bịt tai . Nếu lấy ký âm mà định vị ngữ điệu thì là trẹo miệng, có nhiều sự trái khoái trong thổ ngữ địa phương (nhớ là phần lớn tiếng địa phương như Huế, Quảng Nam, Bình Định, Nghệ An … ký âm đều không phản ánh đúng khẩu ngữ, hoặc nếu đã tiêu chuẩn hóa phát âm thì làm chết cứng phương ngữ). Cho nên, đằng nào cũng bị giới hạn, thôi thì phải tìm cách mà quy ước hệ thống từ vựng đi chứ! Từ nào thuộc đa âm mà thành thì diễn theo đa âm như kinh tế = kinhtế là chuẩn. Cái nào đơn âm thì để đơn âm. Bây giờ có người đặt cho kiểu chữ này là chữ xỏ xâu. Nhớ hồi đầu các nhà Nho gọi chữ quốc ngữ là tuồng chữ dây xích chó thì có sao đâu? Xỏ xâu hay là dây xích chó đều là một thứ, tiếc chi mà không sử dụng và phát triển nó cho khoa học hơn một tí!


x X x

RE: Phêbình của Nghĩa và "TânViệt"

Phú Cường (26/01/02)

Tôi thấy trong cách viết của anh Nghĩa hình như có sự "tứcgiận và cáukỉnh" khi viết vì chuyệngì khác nữa, chớ khôngphải chỉ thuầnlà không đồngý về việc cảicách chữViệt(?)

Cảmgiác khi tôi đọcxong bàiviết của anhta, tôi không thấy có gì xuấtsắc cả, dùlà phêbình đúng hay sai. Anhta chỉ "chêbai" và "tiêntri" theo cảmtính hơnlà dựatrên lýluận. Ngaycả khi viết "in fact", anh cũng không cho "fact" nàocả! Câuchót hìnhnhư anhta ámchỉ một chuyệngì khác (political reform?), nhưng rõràng là khôngcó liênhệ gìhết. 

Tôi có đọc bài của tácgỉả "TânViệt" và hoàntòan tánthành những đềnghị. Dùvậy, tôi cũng có cảmtưởng hơi "áingại" do bởi tácgiả dùng chữ "khánặng" khi nóivề Giámmục BáÐaLộc (Alex.De Rhodes), và đềnghị thayđổi quánhiều và quásớm! ( dù tôi đồngý hoàntòan với anh những thayđổỉ đó).

Nhưng sauđây mới là điều tôi thật sự quantâm:

Tìnhcờ, tôi có vào trangmạng của một nhóm Phậtgíao chủtrương tên là Giaođiểm (www.giaodiem.com), thì thấy có đăng bàiviết đó, nhưng với lời giớithiệu cườngđiệu hơn, nhấtlà dùng câu "Tên-thực-dân....Ðắc-Lộ vv." 

Thúthật, tôi bị "thấtvọng" rấtnhiều về lốidùngchữ trên của người phụtrách trangmạng Giaođiểm, và đâmra "lo" cho tươnglai của chuyện cảicách Chữviết. 

Tôi khôngphải là ngườicônggiáo, nhưng tôi nghĩlà tôngiáo nào cũng có cáihaycáidở, chẳng có tôngíao nào là hoànhảo cả. Ðó là chuyện đứctin của mỗingười.

 x X x



Vấnđề từghép trong Tiếngviệt

by Bùi Kiến Quốc

Feb.11.2005 10:27 am



"Học sinh ra từ hành", một câu tiếng việt giản đơn mà gây ra không ít tranh cãi trong giờ học môn Tiếng Việt của một lớp học về ngôn ngữ, chuyên ngành Tiếng việt và Văn hoá Việt-Nam ở Viện nghiên cứu Quốc gia về Văn hoá và các Ngôn ngữ Phương đông của Pháp, một trong những viện nghiên cứu lớn ở đất nước được coi là ngã tư của các luồng văn minh trên thế giới này.

Quảthực, đối với một người có tiếng mẹđẻ là Tiếngviệt thì câunói nêu trên chẳng có gì để bàn và họcsinh lớp một ở Việtnam cũng hiểu ngay rằng câu này muốn nói "việchọc được sinhra trong quátrình thựchành". Tuyvậy, đối với bấtkỳ một người nướcngoài, hay một ngườiviệt sinhra ở nướcngoài nào bắtđầu học Tiếngviệt đều lúngtúng trước một câunói giảnđơn này. Vậy vấnđề ở chỗ nào? Thật đơngiản như ýnghĩa của chính câu này. Vấnđề là ở chỗ từghép trong Tiếngviệt.

Chúngta hãy lấy một thídụ khác, "giờ học sinh học". Giờ thì đến người nói Tiếngviệt như ngônngữ mẹđẻ cũng lúngtúng nếu không biết chínhxác ngữcảnh của câunói. Câu này cóthể hiểu theo mấy nghĩa hoàntoàn khác nhau, đó là "bâygiờ học môn sinhhọc" và "vào giờhọc của họcsinh", hay thậmchí "vào lúc học môn sinhhọc".

Giờ chúngta hãy chuyểnsang một vídụ kinhđiển khác. Đó là câu "Rắn là một loài bò sát không chân". Ở đây, chưa nói đến những khókhăn đối với người nướcngoài học Tiếngviệt. Một em họcsinh lớp một, chưa có kiếnthức gì về sinhhọc sẽ cóthể hiểu một cách ngớngẩn rằng "Rắn thuộc loài bò, sát không có chân" (vídụ chưa xácđáng?). Chỗ sai ở đây thuộcvề lỗi ngắtcâu, tuyrằng trong cách hiểu sai này sẽ thừa ra chữ "sát", nhưng cũng cóthể thấy rằng đây cũng là một vídụ về từghép trong Tiếngviệt. Trong Tiếngviệt có vôvàn những vídụ như trên và có không biết baonhiêu những bàivè, bàithơ hay câuđối vôcùng thivị, dídỏm hoặc sâucay khi sửdụng nghệthuật ngắt câu trong Tiếngviệt.

Khókhăn đối với người nướcngoài học Tiếngviệt ở đây là gì, là vấnđề từghép tiếngviệt. Đối với người nướcngoài học Tiếngviệt, đặcbiệt là những người mà ngônngữ mẹđẻ của họ thuộc hệ chữ Latinh, chữviết tiếngviệt vôcùng quenthuộc và khá dễdàng đối với họ vì có bảng chữcái Latinh, lại trởnên vôcùng phứctạp vì tính đanghĩa của nó. Một côbạn người Pháp, khi được hỏi tạisao lại chọn Tiếngviệt để học, cô trảlời, một câu trảlời rất giảndị và có vẻ rất cólý rằng cô chọn Tiếngviệt vì cô yêuthích Việtnam và thấy Tiếngviệt chắc là dễ học do có bảng chữcái Latinh, bảng chữcái quáđỗi quenthuộc đối với ngườipháp như cô. Bấtkỳ một người nào amhiểu Tiếngviệt và biết chútít về ngônngữ cũng sẽ mỉmcười vì thấy quảthực côbạn nguờipháp này thật ngâythơ và quáđỗi hồnnhiên. Cô không biết rằng Tiếngviệt là một trong những thứtiếng được xếphạng khó nhất trên thếgiới, khó hơn cả Tiếngpháp và Tiếngnga, mà chỗ khókhăn nhất lại chính là ở chỗ Tiếngviệt có bảng chữcái Latinh.

Chúngta hãy cùng mổxẻ và phântích mộtvài câu đơngiản để thấy rõ vấnđề từghép trong Tiếngviệt. Hãy quaylại với thídụ đơngiản banđầu, câu "học sinh ra từ hành". Đối với bấtkỳ một người nào nghe Tiếngviệt từ thuở nằmnôi, hay từ trong bụngmẹ, hay những người đã amhiểu Tiếngviệt đến mức cóthể tưduy bằng Tiếngviệt đều cóthể hiểu ý câu này ngay lậptức. Tuynhiên, đối với những người còn phải dùng từđiển ngoạingữ để hiểu ýnghĩa câu này thì quả là một tháchthức và tháchthức này đã làm baonhiêu người nướcngoài hếtlòng yêumến Việtnam đành bỏcuộc khi dấnthân vào học ngônngữ của đấtnước đángyêu và mếnkhách này. Khókhăn ở đây là việc nhậnbiết được từ "họcsinh" không phải là từghép, nhưng nhậnbiết saođược khi vốn Tiếngviệt còn quá ítỏi để phânbiệt được sự khácnhau này và khi tra từđiển sẽ thấy vôsố những từghép bắtđầu bằng từ "học" trong Tiếngviệt. Với người nướcngoài học Tiếngviệt, khi tra từđiển, sau một hồi rất kiênnhẫn, cẩnthận và vấtvả, sẽ hiểu câu này theo hai cách khácnhau. Một cách là "học sinh-ra từ hành", và hai là "học-sinh ra từ hành". Hiểnnhiên, đối với người hiểu rõ Tiếngviệt thì cách thứhai là hoàntoàn vônghĩa. Nhưng đối với một họcsinh kiênnhẫn và không ngạikhó, ngoàira cũng chưa đủ kiếnthức về Tiếngviệt, sẽ không dừnglại ở đó, họ sẽ đi tra nghĩa từ "hành" để cốgắng hiểu rõ câu này. Chưa đủ kiếnthức Tiếngviệt, không có người hướngdẫn và dừnglại ở đây thì cóthể họ tựnhủ rằng đây là một câu có nghĩa mà họ chưa đủ kiếnthức để hiểu chứ không nghĩ rằng đây là cách hiểu sai. Mà những trườnghợp nhưthế này không phải chỉ là nhiều mà cóthể nói là chiếm đasố, hay cóthể nói là chiếm támmươi phầntrăm trong một đoạnvăn tiếngviệt. Kếtquả là để tiếpcận được với nền vănhoá của một dântộc mà họ yêumến mà côngcụ, hay chìakhoá để tiếpcận là ngônngữ và chữviết của dântộc đó trởnên gầnnhư không baogiờ họ cóthể nắmbắt được một cách trọnvẹn, hay chỉ cần gọi là tạmđủ.

Liệu cóthể có cách nào giảiquyết được khókhăn này không ? Câu trảlời là có. Trướckia, hồi đầu thếkỷ haimươi, hay xa hơnnữa, khi bắtđầu sửdụng kýtự Latinh làm chữ Quốcngữ, để phânbiệt và nhậnbiết các từghép, ở giữa các conchữ đều có dấu gạchngang, vídụ như "học-sinh", "sinh-viên", "trường-học", "kách-mệnh", hay thậmchí "phở-tái". Chođến nay thì lối viết từghép này chỉ đôikhi được sửdụng cho các chữ phiênâm từ tiếng nướcngoài như "Liên-xô", "Hoa-kỳ", "Hy-mã-lạp-sơn"... trong các vănbản trong nước, nhưng ở nướcngoài, nơi Tiếngviệt là ngoạingữ thì cách viết này hiệnnay còn rất phổbiến trong các thôngbáo, nộiqui nhàtrường, danhsách các mónăn ở nhàhàng, hay là các vănbản tiếngviệt nóichung để dễdàng nhậnbiết, nhằm tránh hiểu nhầm. Việc sửdụng dấu gạchngang để nhậnbiết từghép trong các ngônngữ phươngtây, đặcbiệt trong các ngônngữ gốc Latinh là vôcùng quenthuộc và khá phổbiến. Tuynhiên, trong các ngônngữ này những từghép nhưvậy không nhiều nên tầnsuất xuấthiện trong vănbản là rất ít nên cách này vẫn được sửdụng hữuhiệu và rộngrãi. Ngượclại, Tiếngviệt, một thứ tiếng có toàn từ đơnâm, nếu sửdụng dấu gạchngang để nhậnbiết từghép thì trong một vănbản tiếngviệt, dấu gạchngang sẽ chiếm phânnửa khônggian vănbản này. Cólẽ chính vì vậy mà đến giữa và nửa cuối thếkỷ haimươi, chúngta đã lượcbỏ dần các dấu gạchngang này. Đây là một bước tiến rất xa cho chữviết tiếngviệt, làm đơngiảnhoá và tiếtkiệm khônggian giấy vôcùng, đồngthời làm tăng vẻ đẹp cho một vănbản tiếngviệt. Cóthể nói đây là một bước tiếnbộ vượtbậc cho những người mà đốivới họ, Tiếngviệt là ngônngữ mẹđẻ, nhưng ngượclại, đây là một tháchthức lớn đốivới những ai mà Tiếngviệt đốivới họ là một ngoạingữ. Đây còn là một hạnchế lớn cho những ai là ngườiviệt sinhra và lớnlên ở nướcngoài muốn học đọc và học viết Tiếngviệt để tự tìmhiểu và nghiêncứu nền vănhoá mà chính họ là conđẻ. Và tấtnhiên, việc học Tiếngviệt đối với người khiếmthính trởthành gầnnhư mãimãi là một viễncảnh.

Vậy có giảipháp nào khác không? Câu trảlời vẫn là có. Căncứ vào nguyêntắc đánhvần của Tiếngviệt, bảnchất của conchữ tiếngviệt là dùng để ghiâm phátra từ người nói và từ tiếngviệt thựcsự đa âmtiết, chúngta pháthiện ra rằng nếu viết liền các từghép trong Tiếngviệt lại vớinhau, khôngnhững không ảnhhưởng tới cách phátâm màcòn rất dễdàng nhậnbiết các từghép đó. Ta cóthể sửdụng lại các vídụ trên hay hầuhết các vídụ từghép trong Tiếngviệt để minhhoạ cho ýtưởng này. Vídụ như "họcsinh", "sinhviên", "trườnghọc", "cáchmạng", "trườngđời", "Liênxô" v.v… Và các vídụ câu nêu trên được viếtlại theo lối này sẽ biểuđạt được chínhxác ý của người viết do mỗi từ biểudiễn một kháiniệm chứ không phải biểudiễn một âm phátra, "Học sinh ra từ hành " chứ không phải "họcsinh ra từ hành", "giờhọc sinhhọc", "giờ họcsinh học", hay "rắn là một loài bòsát không chân". Thựctế, trong mộtvài năm gầnđây, khi côngnghệ thôngtin thốnglĩnh lĩnhvực truyềnthông, khi thư điệntử và "chatting" là côngcụ giaotiếp hàngngày hữudụng của đasố ngườiviệtnam ở đôthị, đặcbiệt là giới trẻ thì cách viết từghép này khá quenthuộc. Thậtvậy, một bứcthư điệntử hay một câu nhắntin trên Internet, hay phổbiến nhất là các tinnhắn qua điệnthoại diđộng, để tiếtkiệm thờigian, khônggian viết, hay do côngnghệ chưa chophép soạn chữviết tiếngviệt có dấu, nhằm dễ đọc và tránh hiểu nhầm, rất nhiều người đã bắtđầu sửdụng cách viết từghép theo cách này. Chúng ta hãy cùng xemxét các vídụ sauđây như "hocsinh", "truonghoc", "tinvan". Cùng các tinnhắn phứctạp hơn như "tai may chu khong phai tai anh", ở đây, người nhận tin cóthể hiểu theo rất nhiều nghĩa. Câu này cóthể hiểu là "tại máy chứ không phải tại anh", "tai mày chứ không phải tai anh", "tai máy chứ không phải tai anh", hay mộtvài cách hiểu khác tuỳtheo ngữcảnh. Tuyvậy ta hãy xemxét hai nghĩa cóthể hiểu lầm do gầnnghĩa nhau nhất, đó là "tại máy chứ không phải tại anh" và "tại mày chứ không phải tại anh". Trong một bốicảnh nàođấy, người nhận tin cóthể phậtý khi hiểu nhầm chữ "máy" thành chữ "mày" vì chorằng người nhắn tin thiếu lịchsự. Chúngta cóthể sưutầm vôsố những mẩu chuyệncười về sựhiểu nhầm tai hại, hàihước hay dídỏm trong thờiđại tinnhắn tiếngviệt không có dấu của thờiđại côngnghệ thôngtin này. Và để tránh hiểu nhầm đôikhi buộc người nhắn tin phải dùng mã télex để diễnđạt chínhxác ý của mình. Lúc đó, tinnhắn này sẽ được viết thành "taji masy chws khoong phari taji anh", rất khó đọc và khôngphải ai cũng thuộc mã télex. (lấy vídụ có từghép để minhhoạ)

Nếu viết Tiếngviệt theo cách như vậy, cóthể thấy rằng trong Tiếngviệt sẽ có từ đơnâmtiết và từ đaâmtiết, còn từghép chỉ là một trườnghợp đặcbiệt chứ không phải là một trườnghợp phổbiến và kếtquả là từ tiếngviệt sẽ được nhậnbiết vôcùng dễdàng.

Liệu cách viết liền các từghép có phải là giảipháp hay cho chữviết tiếngviệt hay không, chúngta xin nhường câu trảlời cho các nhàngônngữhọc và sự pháttriển hoànthiện tựnhiên của chữ quốcngữ, song ngay lậptức chúngta cóthể thấy rằng cách viết này sẽ vôcùng thuậnlợi cho người nướcngoài học Tiếngviệt và đôikhi tránh những hiểulầm không cầnthiết trong các vănbản tiếngviệt cho bảnthân những người đang sửdụng Tiếngviệt như ngônngữ mẹđẻ. Cũngvậy, đối với hầuhết các ngônngữ có chữviết trên thếgiới, bảnthân chữviết của chúng cũng truyềntải ýnghĩa của vănbản đó, đặcbiệt là ngônngữ có chữviết tượnghình và kếtquả là ngườiđọc vẫn cóthể hiểu được vănbản mà thậmchí không cần biết nói hoặc nghehiểu ngônngữ đó. Việc này vôcùng thuậnlợi cho côngviệc nghiêncứu, traođổi khoahọc và các côngtác lưutrữ trithức và vănhoá của dântộc. Nhưvậy nếu Tiếngviệt yêuquí của chúngta sửdụng lối viết từghép nhưvậy cũng sẽ có được giátrị nêu trên cho các loại vănbản viết. Cụthể là bấtkỳ một người nướcngoài nào học Tiếngviệt, chưa cần biết nghehiểu và biết nói Tiếngviệt đều cóthể đọc, nghiêncứu hay tracứu các vănbản tiếngviệt một cách dễdàng hơn. Trong khi, hiệnnay chứcnăng duynhất của chữviết tiếngviệt là ghiâm lờinói nên vănbản bằng Tiếngviệt sẽ trởnên vônghĩa khi ngườiđọc không biết nghehiểu và phátâm Tiếngviệt. Đến đây chúngta lại rútra thêm một lợithế của cách viết từghép này đốivới ngườiviệt bị khiếmthính muốn học đọc và viết Tiếngviệt. Thêmnữa, trong thờiđại côngnghệ thôngtin thốnglĩnh như ngàynay, việc viết các từghép tiếngviệt như vậy sẽ dễdàng hơn cho các phầnmềm sửa lỗi chínhtả cho tiếngviệt, một côngcụ vôcùng hữudụng đốivới chếbản điệntử.

Chỉ có vậy thôi nhưng lợiích của nó thì hầuhết chúngta, đặcbiệt là những ngưòi thiếttha mongmuốn truyềnbá và xuấtkhẩu vănhoá việtnam đều thấy rất rõràng và cụthể những lợiích mà sự dễdàng của ngônngữ đem lại. Đó là chắcchắn rằng số người nướcngoài biết đọc và biết viết Tiếngviệt sẽ tăng một cách độtbiến vì những người mếnmộ và yêu Việtnam, muốn tìmhiểu và nghiêncứu về Việtnam trên khắp thếgiới rất nhiều mà với cách viết đó thì đối với họ, Tiếngviệt trở nên đơngiản hơn rất nhiều và khá dễhọc, họ cóthể tự học Tiếngviệt một cách dễdàng hơn. Các nhàviệtnamhọc trên thếgiới chắcchắn sẽ tăng về sốlượng và chấtlượng, các ấnphẩm của Việtnam được dịch ra các thứ tiếng khác sẽ tăng đángkể và cuốicùng là lợiích về thươngmại và kinhtế cũng thấy rõ khi hàngrào về ngônngữ phầnnào đỡ cao và dễ vượtqua hơn. Điều đó khá chắcchắn vì Việtnam là một trong những nước đông dân (xếp trong hàng mười lăm nước đông dân nhất thếgiới), do đó mà Tiếngviệt là ngônngữ có số người sửdụng như tiếng mẹđẻ đứng vào hàng mườilăm ngônngữ có đông người sửdụng như tiếng mẹđẻ trên toàn thếgiới. Và đấy là chúngta chưa kể đến vịtrí địalý thuậnlợi của Việtnam đốivới các luồng thôngthương và thôngtin trên thếgiới mà các nền vănhoá vừa pháttriển độclập vừa phụthuộc lẫnnhau này.

Vậy kínhmong các nhàngônngữhọc hãy xemxét và nghiêncứu vấnđề này xem liệu đây cóthể là một trong những cảitiến cólợi cho chữviết tiếngviệt hay không, chữviết của một ngônngữ ngàn năm vănvật, chữviết của một dântộc được rất nhiều bèbạn khắp năm châu yêumến.


Posted by : PhuocHanh


Nguồn: www.thanhda.com/community/index1997.php?board=510;action=display;threadid=6455

x X x

Bànvề Sửađổi Cáchviết ChữViệt

Author: The Rock

Jun.13.2009 19:45 pm


Cải cách là một chuyện khó, vì hầu hết mọi người đều muốn mọi việc như củ, khỏi phải nhọc công học theo cái mới. Sửa cách phát âm toàn bộ thì chắc không thể làm được nhưng sửa cách viết thì tương đối dễ hơn. Các bạn có cho là nền văn minh được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác là vì được ghi chép lại không? Mà ghi chép lại có hửu hiệu, chính xác hay không cũng còn nhờ cái language system đó có tinh vi hay không nửa.

Language là một cái basic tool, giúp cho họ làm được mọi chuyện khác, mà cái basic tool này có tốt hay không có ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ và làm việc của họ. Nước Mỹ được tiến bộ như ngày hôm nay một phần cũng vì language của họ. Trong ngôn ngữ họ có rules & structure đàng hoàng không có viết theo kiểu mập mờ. Nói một cách khiêm nhường thì English không phải là ngôn ngữ tốt nhứt, nhưng mà ít nhất it's on the right track. Những nước văn minh khác cũng vậy, ngôn ngữ họ cũng theo rules, không phải là ghép chữ búa xua, mạnh ai nấy hiểu. Điều quan trọng không phải language nào là hay nhất, mà là cái science behind the language. Nhìn lại tiếng Việt, tuy dễ học hơn tiếng Tàu nhưng ta có thể nói.. giống theo thằng Tàu. Nhìn thằng Tàu, mấy ngàn năm văn minh, trước cả người tây phương, nhưng đến nay lại kém hơn. Vì họ chậm tiến, một phần lớn cũng vì sự hạn chế của ngôn ngữ của họ. Chúng ta xem, họ phải nhớ hơn 3000 mặt chữ. Tuy đó giúp luyện trí nhớ nhưng ngoài ra nó lại giúp được gì? Sau mấy ngàn năm cho cải cách là điên rồ, rốt cuộc họ cũng phải cải cách cách (<= look at that) viết của họ. Nhìn lại tiếng Việt của chúng ta, từng chữ rời rạc, mổi chữ có nhiều nghĩa khác nhau. Người đọc trong đầu tự ghép chữ lại để biết nghĩa của từ ghép. Nói một cách khác, mạnh ai nấy ghép mạnh ai nấy hiểu. Vấn đề là ở chổ đó.

Nói tóm lại, cái hay không phải làm dể, mà cái làm dể chưa chắc là cái hay. Thay đổi cách viết dính lại như trên đã là minimum change, dù không đổi bất cứ cái gì trong tiếng Việt mà có người la om xòm hoặc lập tức reject ngay, cho thấy việc thay đổi ngôn ngữ không phải là dễ. Có làm hay không là một chuyện, nhưng bỏ chút thời giờ suy nghĩ về vấn đề, việc này không có gì buồn cười cả.

Về Structure & Rules, thì chỉ áp dụng cho văn phạm (grammar) chứ không phải cho ngữ vựng (vocabulary). Cách đổi trên không có giúp một chút gì cho văn phạm cả. Văn phạm giữ nguyên và từ vựng cũng... giữ nguyên! Có khác chăng là thay vì các chữ rời rạc, thì bê nguyên si các chữ đó lại cho dính chùm với nhau. Kết quả là một đống "rời rạc bị dính chùm". Tiếng Anh làm thế cũng được thôi, thay vì "what the hell" thì biến thành "whatthehell", "In other words" thì biến thành "Inotherwords"! "Iamsorry", "thankyou", "justaminute", "IwishyouamerryChritmasandahappyNewYear"! vv...

bro nói đúng đó, cách viết dính như họ nói không giúp gì cho cái messed up grammar của tiếng Việt cả, nó chỉ có thể giúp ta bớt hiểu lầm khi phải tự ghép chữ lại với nhau. Còn về cách bro ví dụ cách ghép và relate it to English thì TR không đồng ý. Thật ra họ không phải nói là ta tự động viết dính chữ lại đại đâu mà phải group lại cho có logic chứ. Đâu phải viết như "thật rahọ không phảinói..." Nếu tùy tiện viết dính lại một cách vô lý như vậy thì thật là điên rồi...hehhehe.. Mấy ngôn ngữ Tây Phương tân tiến họ chia structure của câu thành subject, verb, object phrases or whatever, và vocabulary phân biệt theo loại noun, verb, adjective, adverb, v.v... Cách viết dính trên nói cho cùng cũng là bắt chước theo lối đó thôi. Như là... để grab đại câu nào paste in cái coi :)

"Ngàynay tiếnbộ kỹ thuật và cuộc cáchmạng tinhọc về liênmạng toàncầu chophép chúngta cùngnhau dấyđộng côngcuộc cảitổ cách viết chữViệt của chúngta ngàynay saocho nó cólợi, và cái lợi của nó manglại phải nhìnthấy được trong các lĩnhvực khoahọc kỹthuật, vá tácđộng của nó đốivới sự pháttriển kinhtế nướcnhà."

Họ viết dính chữ theo logic chứ không phải dính đại đâu. Như là "ngàynay" = today... "cáchmạng" = revolution.. "tinhọc" = computer science.. "chophép" = allow... "manglại" = bring... "chúngta" = we... "khoahọc" = science, etc...

Hình như không thấy group nào dài 3 chữ, chỉ có 2 chữ dính lại thôi. Họ viết cũng chưa có consistent mấy, như là "kỹ thuật" lúc đầu không ghi dính. Có những chữ viết TR cũng không hiểu tại sao họ viết dính. Có lẽ họ không áp dụng rule của họ một cách chính xác. Nhưng tóm lại họ viết dính những chữ mà nên là một chữ để cho dể hiểu chứ không phải là dính tùm lum. Nếu đem cách họ viết dính làm sao có thể so sánh với "Iamsorry", "whatthehell", "IwishyouamerryChristmas", v.v.. :)

Source: www.vietcyber.com/forums/archive/index.php/t-91775.html

x X x

TiếngViệt Cảitạo

Bàiviết: Tu Zinh


Xin chào ông dchph!

Tôi đã đọc bàiviết về từzính của ông và rất cảmkích. Chínhtôi cũng đang cố làm điều tươngtự. Tôi cần hỏi ýkiến ông một vài vấnđề trong việc cảitạo tiếngviệt. Kínhmong ông có thể cho tôi địachỉ để liênlạc. Tôi đã email qua email nhưng không biết liệu có đúng là email của ông hay không. Nếu ông đọc được dòng này, hi vọng ông send cho tôi 1 email qua địa chỉ tuzinh.com@gmail.com
Trân trọng!


1) Giới thiệu chung

Tuzinh.com là một website cộng đồng với đề xuất cải tạo, thay đổi ký pháp chữ quốc ngữ hiện nay. Các quy tắc cải tạo và thay đổi theo đề xuất của tuzinh.com giúp chữ viết Tiếng Việt trở nên nhất quán và rõ ràng khúc triết hơn. Chi tiết quy tắc cải tạo mời các bạn xem tại đây

Chữ viết hiện nay do các giáo sĩ tây phương tạo nên và truyền bá vào thế kỷ 17 nhằm truyền giáo trong bối cảnh bị o ép của triều đình nhà Nguyễn. Do đó, sẽ không tránh khỏi những khuyết điểm cần được sửa đổi.
 Một số bất cập lớn hiện tại cần cải tạo như sau:

2) Cải tạo từ ghép

Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới hiện tại đều là đa ấm tiết, tức 1 từ khi đọc có thể gồm 2 âm tiết trở lên. Ví dụ: School đọc là [sku:l], écouter(ekute )… Tuy nhiên các nhà nghiên cứu phương tây cho rằng tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết (monosyllabic) và đơn lập (isolated), là thứ tiếng đơn giản, thô sơ như vùng Bantu ở Phi Châu.

Nguyên nhân 1 phần nhận định này nằm ở từ ghép Tiếng Việt. Từ ghép còn làm cho tiếng Việt trở nên khó hiểu với người mới học và với cả máy móc.

Giả sử bạn cho Google translate dịch câu “Tôi biết người nào có hay?” (Lời bài hát) Lẽ ra phải dịch là: I know you know nothing? Nhưng Google lại dịch là I know someone who has or. Nếu câu trên chỉ bớt 1 phím space và viết lại là Tôi biết người nàocó hay? Thì chắc chắn khi dữ liệu của Google được cập nhật rằng “nàocó” là 1 từ có nghĩa: “khôngcó” hoặc “không”, thì nó sẽ dịch 1 cách chuẩn xác.

Hay như câu thơ “ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương” thì rất nhiều người đều hiểu nhầm canh gà ở đây là canh nấu từ thịt gà (chicken soup), mà không biết canh gà ở đây là 1 từ ghép chỉ giờ gà gáy và nên viết lại là canhgà Thọ Xương. Rõ ràng là khúc triết và tường minh hơn. Và hệ thống từ ngữ tiếng Việt có thêm 1 từ mới là canhgà có nghĩa khác canh gà.

Xét 1 câu bình thường: Đứa bé mếu máo nài nỉ mẹ mua cà rem.
Câu trên được tạo từ 10 từ, trong đó có tới 5 từ hầu như không có nghĩa Nếu loại bỏ các dấu cách để chuyển từ ghép thành từ dính thì câu trên sẽ viết lại là:
Đứabé mếumáo nàinỉ mẹ mua càrem.
Rõ ràng cách viết mới này khúc triết khoa học hơn, một người nước ngoài hay 1 đứa bé mới học tiếng việt nhìn vào cũng sẽ thấy được rõ các thành phần chủ ngữ, động từ và vị ngữ của câu và tất cả các từ đều có ý nghĩa.

Sẽ có người cho rằng viết như thế thì rối mắt và khó đọc, tuy nhiên nếu ai đã từng học ngoại ngữ thì chắc cũng biết các từ như : football, sunrise, mother-in-law…trong tiếng anh hay lối viết long thòng Informationssystemverarbeitung (information system processing) của tiếng Đức, hay cả chữ Hàn Quốc hyundai = hiệnđại, dongnama=đôngnamá, fanghuo=phónghoả …đều viết liền với nhau và không có bất cứ khó khăn nào.

Có thể lúc mới nhìn bạn sẽ không quen khi đọc nhưng dần dần sẽ nhanh quen thôi. Giống như việc người Anh thoáng nhìn mother-i…là đã biết là mẹ vợ, người Đức thoáng nhìn chữ informationssy… là họ đã hiểu là xử lý thông tin hệ thống mà không cần phải đọc hết con chữ loằng ngoằng ấy.

Do đó việc thay thế từ ghép bằng từ dính là điều rất cần thiết, chúng tôi sẽ phân tích phương thứ thay thế và những thứ được và mất khi cải tạo ở bên dưới.

3) Cải tạo ký pháp:

a. Thống nhất sử dụng I, Y

Tất cả các từ hay thành tố của từ dính chỉ có 1 nguyên âm và nguyên âm đó là y hoặc I thì thống nhất dung I, trừ trường hợp từ hay thành tố của từ dính chỉ gồm 1 chữ cái I hoặc y thì dung y:
- Ví dụ: in ấn, ít nhiều, mĩ thuật, kỉ cương, phi lí, y tế, lợn ỷ, chú ý…
- Các từ hay thành tố từ dính khác có từ 2 nguyên âm trở lên thì viết như cũ.
- Ví dụ: yên tâm, riêng tư, phiên dịch…

b. Thay thế từ phát âm giống nhau D, GI và ký tự Đ.

Hiện tại d và gi đều có phiên âm và cách đọc là /z/. Điều này dẫn đến sự trùng lặp vi phạm quy tắc ngôn ngữ. Do đó , chúng tôi đề xuất thống nhất sử dụng z thay thể cho cả d và gi trong các trường hợp. Điều này còn tránh được một số lỗi chính tả liên quan như Giông/dông tố, dàn/giàn mướp,Giẫm/dẫm đạp….

Ký tự D sẽ thay thế cho Đ và phiên âm là /d/ giống với tiếng Anh.

Theo đó các từ trên ghi lại là: Zôngtố, zànmướp, zẫmdạp…

c.Thay thế các từ thừa như Ngh, Gh, Ph, Qu

Bỏ ký tự h trong từ Ngh và Gh thành Ng và G: ký tự h không thực sự cần thiết khi cách phát âm Ngh và Ng, Gh và G hoàn toàn giống nhau. Do đó nên loại bỏ từ h tránh nhầm lẫn và đơn giản chữ viết.

Thay Ph bằng F: Hiện tại chữ cái P chỉ đi kèm với h thành Ph, do đó thay thế Ph thành F để đơn giản chữ viết hơn và đồng thời cũng đảm bảo tính logic của ngôn ngữ.

Chẳng hạn từ: Giết tại sao không là đọc là I ê tờ iết, Gờ iết ….hay ê tờ ết, zi ết …mà lại đọc là ziết…

Phương thức thay thế các từ D,Đ,GI,NGH,GH,PH thoạt nhìn trông có vẻ không đẹp. Tuy nhiên đó là do ta nhìn chưa quen mà thôi.

4) Được và mất khi thực hiện cải tạo tiếng việt:

a. Được:

Trước tiên là những giá trị vô hình không đong đếm được như trẻ em, người học tiếng việt sẽ dễ dàng nắm bắt, đỡ mất thời gian hơn.

Các máy móc sẽ hiểu tiếng việt dễ dàng hơn, đưa người Việt tiếp cận với văn minh phương Tây tốt hơn. Chẳng hạn hiện tại đơn giản là công cụ Google Dịch, các công cụ phân tích dữ liệu tìm kiếm của Google, dữ liệu chia sẻ của Facebook… và tương lai rất gần là Trí Thông Minh Nhân Tạo ( AI ).

Chỉ với những cải tạo nhỏ trên, chúng ta loại bỏ được 100% những tranh cãi về ngữ pháp tiếng Việt. Tăng tính chất logic của ngôn ngữ Việt giúp nó gần với các ngôn ngữ khác hơn.

Nếu dung tiếng việt cải tạo, chúng ta sẽ bớt đi được 10% số lượng phím cần nhấn cho 1 văn bản, tương ứng là 10% thời gian làm việc của những người làm việc trên máy tính.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2015 (https://gso.gov.vn ). Cả nước hiện có 52,840,000 người đang làm việc trong đó tỉ lệ lao động có bằng đại học trở lên là 8.5%, cao đẳng là 2.5%. Tương ứng lao động có trình độ cao đẳng trở lên là 11% tương đương 5.8 triệu người. Số lao động này đa số làm việc đều sử dụng máy vi tính. Có người làm việc cả ngày với máy tính, cũng có người chỉ thỉnh thoảng mới dùng máy tính để làm báo cáo, đọc văn bản, chương trình…Ở đây chúng tôi tính bình quân mỗi người chỉ sử dụng nửa giờ trong 1 ngày làm việc để gõ máy tính. Dĩ nhiên số liệu này không có cơ sở chính xác, tuy nhiên tính nửa giờ để quy đồng cho những người làm việc cả ngày và những người lâu lâu mới sử dụng máy tính thì không hề cao. Con số thực tế sẽ còn cao hơn. Với từ mới, tốc độ gõ máy tính tăng lên 10%, tương ứng năng suất trong nửa giờ này tăng lên 10%. Xét mức lương bình quân của đối tượng lao động này khoảng 6 triệu/ tháng. Thì 1/2h làm việc khoảng 6,000,000/26/8/2 =14,423 đồng. Tăng năng suất 10% tương ứng là 1,442 đồng/ ngày/ người. Hay 37,492 đồng/ người/ tháng (26 ngày làm việc). Nhân con số này với 5.8 triệu người thì con số sẽ là: 217.45 tỷ đồng/ tháng, 2,609 tỷ đồng/năm. Con số này chỉ được tính ước lệ để hình dung , con số thực tế chúng tôi tin lớn hơn rất nhiều.

Ngoài ra tốc độ đọc văn bản cũng sẽ tăng lên. Do cơ chế đọc của mắt người là từ trái qua phải và quét từng từ để nắm nội dung, mặt khác khi dính từ thì một dòng thay vì hiển thị 20 từ sẽ hiển thị 22 từ, do đó khi não bộ đã được huấn luyện đọc từ tiếng Việt mới và quen với nó thì tốc độ đọc sẽ tăng lên khoảng 5-10%. Cũng tương ứng năng suất làm việc tăng lên. Lượng mực in, giấy in, chi phí in bảng quảng cáo…sẽ được giảm đáng kể và mang lại giá trị kinh tế nhất định.

b. Mất:

Thực tế chúng ta không mất gì cả, chỉ thay đổi thói quen một chút. Trước là trong các văn bản không chính thống như trên mạng xã hội, forum, blog, sms, email… và khi đã quen thì nhà nước sẽ ban hành cho phép sử dụng một cách chính thống.

Các sách vở đã in bằng chữ truyền thống không cần in lại, tất cả các bản số hóa sẽ được chuyển đổi qua chữ mới bằng phần mềm nhanh gọn. Phần mềm cực kỳ đơn giản mà chúng tôi đang thử nghiệm tại Tuzinh.com.

Tới thời điểm thích hợp thì trẻ em sẽ được học tiếng Việt cải tạo thay vì như truyển thống, các em cũng sẽ đọc tiếng truyền thống hiểu dễ dàng tuy nhiên sẽ không cần thiết vì mọi tài liệu đã được số hóa bằng tiếng cải tạo mới.

5) Về phương pháp đổi thành từ dính:

Về quy tắc thì cực kỳ đơn giản. Hầu như tất cả các từ ghép hiện tại được bỏ khoảng trắng và viết dính với nhau.

Chẳng hạn như: Tấtcả chúngtôi đều mongmuốn từdính sẽ thànhcông.

Trừ những từ có thể gây hiểu nhầm thì dùng phím – để nối.
Ví dụ như: thú-y, chú-ý, thờ-ơ, o-ép,

Vốnzĩ zântộc chúngta rất bảothủ, khi gặp những ýkiến mớimẻ mà mình chưa hiểu hết, hoặc đơnzản là khôngthích thì sẽ fảnbác ngaylậptức mà không tìm dược một lýluận xácđáng nào dể fảnbác. Chúngtôi hivọng tuzinh.com sẽ nhậnđược nhiều sựdồngtình cũngnhư fảnbác mộtcách cólýluận rõràng từ ngườidọc.

Tài liệu tham khảo:

- “Tiếng Lừa Cảitạo” , Tác giả: An Hoàng Trung Tướng
- “Sửađổi Cáchviết ChữViệt”, Tác giả: dchph
- “Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ”, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1961
- Tổng cục thống kê: Báo cáo số liệu lao động theo phân ngành và trình độ.
- “Từ điển tiếng việt”, Viện ngôn ngữ học, 1988.
- “L’Annam Nouveau- Nước Nam Mới”, số 115 ngày 06/03/1932, Nguyễn Văn Vĩnh


Source: http://tuzinh.com/index.php?page=zoithieu
Tu Zinh

-----------------------------

Gópý: WOA

Oct.16.2016 20:30 pm


Chỉ nên dổi gi thành j, d thành z, đ thành d, ph thành f, qua thành qoa, goa thành woa, guốc thành wuốc, goát thành woát, quát thành qoát,.... k, ngh, gh di trước i, e, ê (do là âm bẹt), còn lại c, g di với các nguyên âm khác ngoại trừ (oa, uốc, uất,... do di với q, w), ng di với các âm ngoại trừ i, e, ê. y chỉ di với yêu hoặc yết hay yến (do ê là âm bẹt, y dứng dầu dóng vai trò vừa là phụ âm vừa là nguyên âm), ay, uy hoặc dứng 1 mình trong các từ (y, ý, ỷ), còn i thì các từ còn lại như kiêu, tai, tui, ít, ia, i dứng 1 mình (ì, ĩ, ị)

VZ: Woa Sinh Tơn là thủ dô của Hoa Kì, dược thành lập vào ngày 16 tháng 7 năm 1790. Dịa zanh này dược vinh zự mang tên vị tổng thống dầu tiên Woa Sinh Tơn của Hợp chủng quốc, kết hợp với tên của người khám fá ra châu Mĩ là Cô Lôm Bô thành Dặc khu Cô Lôm Bi A.
Sau cải cách các chữ sẽ như sau:
đa -> da
da-> za
gia -> ja
"giịa" -> jịa
qua -> qoa
goa -> woa
guốc -> wuốc
pha -> fa
quy jữ nguyên
quen -> qoen
quên, quân, quyên jữ nguyên
thêm từ pa, pu,... vào cho dầy dủ âm tiết
...
khi fát âm j, lưỡi fải dể ở mặt trong hàm răng trên, còn khi fát âm z thì lưỡi fải dể ở mặt trong hàm răng zưới, r thì uốn cong lưỡi + luyến nhẹ (như âm r trong tiếng Trung)
ch dặt lưỡi ở mặt trong răng dưới + bật hơi, tr uốn cong lưỡi + bật hơi


- Ngườihiệuđính: Woa vào ngày Oct.16.2016, 21:06 pm

x X x

-----------------------------

Tínhđaâmtiết của tiếngViệt bìnhdân trong nhạcvàng

Bàiviết: dchcph

Feb.12.2020 08:47 am

GhichúBảnnhạc bolero sauđây của Nhạcsĩ Anh Việt Thu đã thểhiện mộtcách tàitình tínhchất songâmtiết của tiếngViệt, tínhcách bìnhdân lẫn tínhthivăn. Nhưng hầunhư lời của những bản nhạcvàng khác đều thểhiện rõ néthàihoà songâmtiết trong tiếngViệt, cứynhưlà thơ Lụcbát hay cadao trong linhhồn bìnhdân.


Cuốntheo Chiềugió

Tácgiả: : Anh Việt Thu

Một ngàynào vềthăm đấtmẹ,
Đườngvề mưabay giăngmắc lốiđi,
Còn tìmđâu xanhxanh hoacỏ,
Tìmđâu đêmđêm trăngtỏ,
Tìmđâu tiếngru vào nôi.

Còn tìmđâu tìmđâu máinhà,
Còn tìmđâu ngôitrường cũ mếnyêu,
Còn tìmđâu mâybuông tócxõa,
Tìmđâu emthơ nhonhỏ,
Tìmđâu tuyếtsương mẹgià.

Giócuốn nướcchảy lạnhlùng,
Đườngxưa muônlối biết đi tìmđâu ngàythơ,
Lặngnhìn mưa mưarơi nứcnở,
Mây chẳng xâythành,
Buồn dâng dânglên ngấttrời.

Ngàythơ ơi! Đãqua mấtrồi,
Còn niềmtin tronglòng vẫn nởhoa,
Còn dìunhau trong cơnmưagió,
Dìu nhau trong cơngiôngbão,
Dìunhau dắtnhau vàođời.

Anh Việt Thu
(1966)


Nghe xong ở YouTube, bạn cóthể thửnghiệm tínhđaâm tiếngViệt bằngcách mởloa nghe ởđây:


https://inforobo.com/text-to-speech-online/
https://translate.google.com/

--------------------------------

Việtngữ2020 sẽ làmcho ýnghĩa trởnên minhbạch hơn

by dchph:

Mar.17.2022 14:13 pm

Trênmạng và báochí Việtnam có xuấthiện những cụmtừ nhưsau mà có người phêbìnnh là 'Phong ba bão táp ko bằng ngữ pháp Việt Nam!'

Thídụ:

  • Bún chả ngon' vs. 'bún chả ngon'

  • 'Cột điện cao thế' vs. 'cột điện cao thế!'
  • 'Mất mạng' vs. 'mất mạng'
  • 'Hổ mang bò lên núi' vs. 'hổ mang bò lên núi'
  • 'Năm con hổ đang đến' vs. 'năm con hổ đang đến'
  • 'QUYẾT ĐỊNH LIỀU TIÊM CHO TRẺ 5-11 TUỔI'' vs. 'QUYẾT ĐỊNH LIỀU TIÊM CHO TRẺ 5-11 TUỔI'

Sosánh ýnghĩa nộidung (1) với cáchviết sovới trênđây (vs.) (2) đaâmtiết báchọc:

  • 'Búnchả ngon' vs. 'bún chả ngon'

  • 'Cộtđiện caothế' vs. 'cộtđiện cao thế!'
  • 'Mấtmạng' vs. 'mất mạng'
  • 'Hổmang bòlên núi' vs. 'hổ mang bò lênnúi'
  • 'Nămconhổ đangđến' vs. 'năm conhổ đangđến'
  • 'QUYẾTĐỊNH LIỀUTIÊM CHO TRẺ 5-11 TUỔI'' vs. 'QUYẾTĐỊNH LIỀU TIÊMCHO TRẺ 5-11 TUỔI'
  • vv...

Ta thấyngay Việtngữ2020 sẽ làmcho ýnghĩa trởnên minhbạch hơn!

-------------------------------------------

Vài ý kiến về ý tưởng cải tạo tiếng Việt của diễn đàn Tiếng Việt VNY2K

Tácgiả: Phùng Văn Hòa

Một nhóm tác giả trên diễn đàn VNY2K và tác giả của bài viết 'Ngônngữ và trítuệ' đã nêu lên một ý tưởng nghiên cứu ảnh hưởng của ngôn ngữ tới trí tuệ và qua đó cải tạo lại hệ thống tiếng Việt trên hai phương diện chữ viết và dẫn đến một số thay đổi trong cách phát âm. Đây là một ý tưởng rất nghiêm túc và đáng trân trọng. Tôi cũng đã có một cảm nhận về ảnh hưởng của ngôn ngữ tới trí tuệ và cũng có dự định một lúc nào đó nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy khi Tác giả nêu ý tưởng này tôi thấy vấn đề đã được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, mục đích của tôi không phải như Tác giả là cải tạo ngôn ngữ mà chỉ là tìm hiểu xem ưu thế và nhược điểm của mỗi hệ thống ngôn ngữ nằm ở đâu, mức độ ảnh hưởng của nó tới trí tuệ như thế nào và tìm cách hạn chế nhược điểm, phát huy ưu điểm. Mỗi hệ thống ngôn ngữ trên thế giới đều được hình thành trong những điều kiện nhất định. Tôi cho rằng điều kiện thời tiết nóng hay lạnh có ảnh hưởng nhiều đến cách phát âm của từng tộc người sống trong những vùng địa lý chịu ảnh hưởng của khí hậu đó và về sau có những biến đổi thông qua quá trình giao lưu. Đây có thể là nguyên nhân của cách nói đơn âm hay đa âm, nhiều âm gió hay dùng nhiều phụ âm đầu. Một hệ thống ngôn ngữ hay tiếng nói của mỗi tộc người đã hình thành sau hàng trăm ngàn năm, nhưng nó có thể biến mất sau chỉ hai hoặc ba thế hệ, chúng là những di sản văn hoá không chỉ của tộc người sở hữu chúng mà còn là của cả nhân loại. Vì vậy khi thấy Tác giả đặt vấn đề cải tạo lại hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt, tôi thấy mừng thì ít mà lo thì nhiều. Lo không chỉ về việc làm biến mất tiếng Việt trên bản đồ thế giới nếu công trình của Tác giả thành công. Rồi đây những văn tự, những tuyệt tác thơ văn, những ca khúc bất hủ được viết trong thế kỷ 20 và 21 bằng tiếng Việt và chữ quốc ngữ sẽ không còn ai đọc được, nghe được và hiểu được trong thế ký 22 khi hệ thống ngôn ngữ và chữ viết tiếng Việt đã được cải cách. Chúng ta đã phải tốn nhiều công sức và tiền của khi chuyển ngữ các văn tự cổ từ chữ nho, chữ nôm ra quốc ngữ. Không có nhiều người Trung quốc ngày nay đọc và hiểu được các văn tự cổ mặc dù chỉ có thay đổi về chữ viết. Mục tiêu của Tác giả là cải tạo lại toàn bộ hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt, bao gồm cả tiếng nói và chữ viết. Không thể một trong hai bởi chúng ở trong cùng một hệ thống. Một mục tiêu lớn và có thể nói là rất lớn. Chính vì vậy sự thành công tôi e rằng ra rất nhỏ. Tôi xin nêu một vài lý do của sự e ngại này:

    +Tác giả chưa tìm hiểu kỹ ảnh hưởng của ngôn ngữ tới trí tuệ, có thể Tác giả thấy những nhược điểm mà không thấy những ưu điểm, do đó Tác giả có thể đánh mất những uu điểm đó. Đây sẽ là một hậu quả nghiêm trọng nếu điều này xảy ra.
    Tác giả tìm cách giải quyết ngược vấn đề. Cách giải quyết ngược hay sự đảo lộn vấn đề nhiều khi cũng đưa đến thành công. Nhưng sự đảo lộn này nằm trong tư duy để tìm ra ccs vấn đề chứ không phải giải quyết trong thực tế bởi các quá trình trong tự nhiên đều diễn biến theo quy luật và trình tự thời gian. Loài người đã hình thành nên tiếng nói từ rất lâu trước khi tìm ra chữ viết và học nói trước khi học viết, nay Tác giả bắt đầu từ cách viết chữ để tìm cách xây dựng hệ thống tiếng nói mới. Đây là cách biến ngôn ngữ của mình thành ngoại ngữ. Để tư duy tốt, con người cần nắm chắc và sử dụng thành thạo một thứ ngôn ngữ nào đó. Muốn có trí tuệ, muốn tư duy tốt nhưng phải mất từ ba mươi đến bốn mươi năm của cuộc đời để chỉ dành cho việc nắm chắc ngôn ngữ thì còn được bao nhiêu thời gian cho trí tuệ. Nếu một người nói thông viết thạo tiếng Việt trong khi tiếng Anh của người đó chưa hoàn hảo thì họ sẽ dùng thứ ngôn ngữ nào để tư duy mặc dù theo như Tác giả tiếng Anh giúp người đó có trí tuệ tốt hơn?

    +Tác giả so sánh một cách khập khiễng giữa cách ghi nhớ và sử dụng sự ghi nhớ giữa máy tính điện tử và bộ não. Nguyên nhân của vấn đề này là Tác giả chưa hiểu nhiều về bộ não mặc dù Tác giả đã có rất nhiều tài liệu quý nghiên cứu về não. Tôi lấy ví dụ về cụm từ “Trường đại học” mà Tác giả nêu trên đây. Với máy tính điện tử thì các từ trên đây được xác định bằng số bít hay một đại lượng vật lý khô khan. Máy tính chỉ phân biệt cụm từ này với cụm từ khác, ví dụ “Trường phổ thông” bằng số bít, ngoài ra nó chẳng hiểu gì thêm nữa. Nhưng với con người thì cụm từ đó không chỉ mang tính thông tin, mà nó còn mang nhiều ý nghĩa. Cụm từ đó không chỉ là các đơn vị thông tin mà chúng còn là các khái niệm. Đây là một điều rất quan trọng đã làm nên cái được gọi là con người. Con người hiểu được các khái niệm và do đó có tư duy, còn máy tính thì chẳng biết gì về khái niệm. Lượng thông tin mà máy tính nhận được đúng bằng lượng thông tin khi nhập vào, còn bộ não thì không. Bộ não có thể loại bớt hay bổ xung thêm lượng thông tin do các giác quan đem tới (đây là điều mà Tác giả nói trên đây). Do đó định lượng thông tin bằng số bít cho bộ não chẳng còn ý nghĩa. Vậy mà Tác giả lại có ý định sử dụng cách thức ghi nhớ của máy tính điện tử cho não. Phải chăng Tác giả đang định biến bộ não người thành bộ vi xử lý của chiếc máy tính vô tri?

    +Một đặc điểm quan trọng trong sự ghi nhớ của bộ não là sự hình thành các phần tử ghi nhớ và liên kết giữa các phần tử đó. Phần tử ghi nhớ có thể là một nơron hoặc nhiều nơron chỉ ghi nhớ về một chi tiết nào đó. Việc hiển thị những cái đã ghi nhớ của bộ não không phải là dùng đầu đọc để quét qua các phần tử ghi nhớ mà là kích hoạt sự hoạt động của các phần tử ghi nhớ thông qua các liên kết thần kinh. Nếu các phần tử ghi nhớ không được kích hoạt hoặc không có liên kết thần kinh thì sự ghi nhớ đã có cũng không được tái hiện. Hệ thần kinh không đi tìm điểm ghi nhớ thích hợp như máy tính mà tạo kích thích thần kinh để các phần tử ghi nhớ lên tiếng. Do đó có thể bộ não tìm được câu trả lời hoặc không, tìm được một hoặc có thể nhiều câu trả lời, có câu trả lời đúng và có thể có câu sai, còn máy tính thì luôn tìm được một câu trả lời đúng và đủ khi câu trả lời đó chắc chắn được ghi nhớ trong máy và hệ điều chạy bình thường. Các liên kết đóng vai trò quan trọng cho tư duy của bộ não. Số lượng các mối liên kết được thiết lập càng nhiều trên cùng một lượng phần tử ghi nhớ thì khả năng tư duy càng cao. Vấn đề này đã được Tác giả đã nêu ví dụ về bộ não của Einstein trên đây. Đương nhiên là khi lượng tri thức càng nhiều thì số lượng các liên kết được thiết lập càng lắm và cơ hội cho tư duy cũng tăng lên. Nhưng vấn đề đặt ra là tính chất của các liên kết đó như thế nào bởi tính chất của các liên kết thần kinh quyết định năng lực tư duy chứ không phải khả năng ghi nhớ quyết định năng lực tư duy. Tác giả cũng nêu thí nghiệm về việc ghi nhớ các con số mà Tác giả cho là “mẹo vặt” để nhớ nhanh. Thực ra đây không phải là mẹo vặt mà là minh chứng cho sự tồn tại của yếu tố thứ hai trong sự ghi nhớ của hệ thần kinh, đó là liên kết ghi nhớ. Khi các phần tử ghi nhớ được liên kết với nhau thì sự tái hiện ghi nhớ sẽ dễ dàng hơn.

    Tư duy của bộ não không chỉ có bằng tiếng nói, lời văn mà còn bằng hình tượng. Tư duy bằng hình tượng không chịu ảnh hưởng của hệ thống ngôn ngữ. Hình tượng có thể chuyển thành ngôn ngữ. Khi hệ thống ngôn ngữ không đủ thì tư duy hình tường sẽ thay thế. Hệ thống ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao, chuyển tải và phổ biến tư duy nhưng nó không có ý nghĩa quyết định. Có những nông đan chỉ có trình độ văn hoá lớp ba nhưng chế tạo được cả chiếc máy gặt đập liên hợp trong khi có những kỹ sư cơ khí chỉ có thể thiết kế được các chi tiết của chiếc máy đó khi được chỉ dẫn các thông số kỹ thuật. Lượng ngôn ngữ trong não của kỹ sư cơ khí chắc chắn là nhiều hơn hẳn người nông dân, nhưng năng lực tư duy lại kém hơn. Lượng ngôn ngữ chỉ mang yếu tố trình độ, tư duy thể hiện năng lực cá nhân và trong nhiều trường hợp nó thay thế cho trình độ. Ghi nhớ thông tin loại nào để phát triển năng lực tuy duy quan trọng hơn lượng thông tin buộc hệ thần kinh phải ghi nhớ.

    +Tác giả có đặt câu hỏi là tại sao các nước nói theo ngôn ngữ đơn âm ở khu vực đông nam Á thường là nghèo còn các nước nói theo ngôn ngữ đa âm mà cụ thể là các nước Tây Âu có nền khoa học và kinh tế phát triển. Không biết các tác giả đã có thống kê cụ thể là có bao nhiêu nước trên thế giới sử dụng hệ thống ngôn ngữ đa âm có nền kinh tế kém phát triển và bao nhiêu nước sử dụng hệ thống ngôn ngữ đa âm có nên kinh tế phát triển. Trong thực tế sự giàu nghèo của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều yếu tố, từ vị trí địa lý, thời tiết, khí hậu, nguồn tài nguyên, nguồn lực con người đến chính sách phát triển. Có thể ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học kỹ thuật và do đó ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế. Nhưng sự ảnh hưởng đó là như thế nào và có thực sự ảnh hưởng đó có ảnh hưởng chính hay không thì các tác giả không đưa ra được cơ sở và trên thế giới cũng chưa có công trình khoa học và sự khẳng định nào về vấn đề này. Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc đâu có sử dụng hệ thống ngôn ngữ đa âm và nối âm, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều tiên và Hàn quốc cùng nói chung một thứ tiếng, viết cùng một thứ chữ nhưng nền kinh tế phát triển ở mức độ khác nhau. Không biết các nước này sẽ làm cách nào để viết liền các âm trong một từ khi chữ viết là chữ tượng hình? Nghiên cứu ảnh hưởng của ngôn ngữ tới tư duy và trí tuệ là việc đáng làm, nhưng kết luận hệ thống ngôn ngữ đơn âm ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế và cải thiện đời sống, đến trí tuệ là không thỏa đáng. Đặt mục tiêu cải tạo tiếng Việt theo hướng viết liền và đọc nối âm theo kiểu châu Âu của Tác giả VNY2K theo tôi là không thực tế.

    +Tôi đã đọc thử các viết liền các âm trong một từ nhưng tốc độ đọc chậm hơn bình thường bởi bộ não chưa quen nên phải tìm chỗ phân cách giữa các âm. Trong thực tế thì khi nghe phát âm chữ viết liền hay viết cách đều như nhau chỉ giải quyết vấn đề viết liền nhau thì không giải quyết được nhiều vấn đề mà còn gây khó khăn cho người đọc. Ngoài ra khả năng của mắt có thể tiếp nhận một lúc nhiều loại thông tin khác nhau nên nó chẳng khó khăn gì khi tiếp nhận hai hay ba luồng thông tin vì vậy không cần thiết phải dặt vấn đề viết liền hay viết cách các âm của một từ.

Những ý kiến trên đây không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn ý tưởng của Tác giả mà chỉ là những đóng góp nhỏ cho một ý tưởng lớn. Xin được giao lưu cùng với Tác giả ý tưởng để giúp cho tiếng Việt được hoàn thiện và góp phần vào sự phát triển của trí tuệ đúng như mong ước của Tác giả. Xin cảm ơn những thông tin bổ ích mà tác giả cung cấp trong bài viết.

Source: http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/Vài_ý_kiến_về_ý_tưởng_cải_tạo_tiếng_Việt_của_diễn_đàn_Tiếng_Việt_VNY2K

- Ngườihiệuđính: dchph vào ngày Feb.19.2025, 16:50 pm


--------------------------------

Một số vấn đề của chữ viết tiếng Việt dính liền

TácgiàNguyễn Tiến Hải

Cuộc vận động cải cách chữ viết tiếng Việt VNY2K (tiếng Việt mới cho năm 2020)(1) có mục đích tốt đẹp là làm chữ viết tiếng Việt hợp lí hơn. Các tác giả cuộc vận động này cho rằng tiếng Việt hiện đại là ngôn ngữ đa âm tiết(1)(2), và các đơn vị từ thống nhất ...

Cuộc vận động cải cách chữ viết tiếng Việt VNY2K (tiếng Việt mới cho năm 2020)(1)(có mục đích tốt đẹp là làm chữ viết tiếng Việt hợp lí hơn. Các tác giả cuộc vận động này cho rằng tiếng Việt hiện đại là ngôn ngữ đa âm tiết[(1)(2), và các đơn vị từ thống nhất nên được viết dính liền lại với nhau. Ví dụ các từ "quấn quýt", "rời rạc", "bâng khuâng", "lạnh lẽo", "sạch sành sanh", ...nên được viết dính liền lại với nhau. Tuy nhiên, tồn tại một số khó khăn cản trở cuộc vận động này.

Mới đầu chưa quen với cách viết mới, người đọc sẽ gặp phải một số khó khăn trong cách đọc và cách gõ văn bản trên máy tính. Đó là:

a) Chữ viết dính liền gây khó khăn trong việc phân biệt các từ có cách viết giống nhau, ví dụ:

+ "thúy" ở đây đọc là "thúy" hay là "thú y"? (3)

dchph:  'thúy' khácvới 'thuý'; trong chínhtả khôngcó cáigọilà thẩmmỹ, tươngtự, cáchđánh chữ 'của' khácvới 'quả', v.v.]


+ "pháthành" trường hợp này "phát hành" hay "phá thành" đều có nghĩa. Nếu bàn sâu hơn thì trường hợp này là cách viết cho "phát hành", vì "phát hành" là một động từ, còn "phá thành" theo quy tắc phải viết thành hai từ riêng chứ không được phép viết dính liền vì động từ "phá", đi sau nó là đối tượng "thành", tuy nhiên lúc đầu chưa quen người viết có thể sẽ có nhầm lẫn trong cách viết như vậy.

dchph: Bảnthân người này coithường tríthôngminh của mình quá!] 

+ "côngân" (khi gặp chữ côngân biết đọc thế nào đây? "cô ngân" hay "công ân" mới là đúng, vì dù theo chuẩn chính tả chữ ngân trong "cô ngân" phải viết hoa nhưng đôi khi vẫn có người viết sai chính tả như thế. Tôi sẽ tìm ví dụ khác thuyết phục hơn, nhưng những ví dụ tương tự như vậy có nhiều). 

[ dchph: Nghĩ khôngra thì đường có nghĩ! Làmgì trong tiếngViệt có từ 'côngân'. 'Cô Ngân' là 'cô Ngân', là hai danhtừ độclập, nghĩalà 'cô(gái) có tên là 'Ngân'.]

b) Chữ viết dính liền gây khó khăn cho người đọc trong việc đọc tài liệu (gây nhức mỏi cơ mắt vì phải đánh vần để tách các tiếng)

dchph: Cólẽ người này ngoài tiếngViệt ra khôngbiết ngônngữ nào khác.]

c) Chữ viết dính liền gây khó khăn trong việc gõ tiếng Việt trên máy vi tính theo kiểu telex: Gõ tiếng Việt theo kiểu telex được coi là phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay (do tốc độ gõ văn bản tiếng Việt không có xen từ nước ngoài nhanh nhất), nhưng telex không hỗ trợ việc viết dính liền các tiếng (trong một từ gồm 2 tiếng trở lên telex không cho phép hai vị trí bỏ dấu, ví dụ không thể gõ từ "ánhsáng" theo kiểu telex được).

a) Tạm thời chúng ta dùng dấu ngang nối thay vì viết các tiếng dính liền. Việc này không trái với ý nghĩa chính của cuộc cải cách chữ viết tiếng Việt là nối các đơn vị từ đa âm tiết có ý nghĩa thống nhất lại với nhau.

dchph: Lại dùng dấungang! Dấtngang chỉ nên dùng trongnhững trườnghợp cầnthiết.]

Đối với những cụm từ có dấu ngang nối trong cách viết thông thường hiện nay thì chúng ta nên thay bằng dấu gạch ngang dưới "_" hay hai dấu ngang nối liên tiếp " ". (ví dụ: tỉnh Thừa-Thiên_Huế, hay tỉnh Thừa-Thiên--Huế).

Còn việc tiết kiệm dung lượng lưu trữ văn bản nhờ cách viết dính liền sẽ thành hiện thực nếu như trong tương lai có cách viết tiếng Việt mới khác ra đời và giải quyết những hạn chế đã nêu của kiểu viết dính liền hiện nay.

b) Có thể dùng kiểu gõ Tubinhtran (chương trình gõ WinVNKey cho phép cách gõ này), chọn cách kết hợp dấu là "Nhiều vần kiểu tự do"(4).


-------------------------------------------------
1. dchph. VNY2K “Sửađổi Cáchviết ChữViệt Haylà ChữViệt Năm 2020
2. Nguyễn Phước Đáng. “Chữ Việt có hai vần”
3. Phụng Nghi, Cái gạch nối trong chữ Việt
4. Trần Tư Bình. “Phương pháp mới gõ tắt chữ Việt”

Source: http://zaidap.com/mot-so-van-de-cua-chu-viet-tieng-viet-dinh-lien-d289450.htm

- Ngườihiệuđính: dchph vào ngày Feb.19.2025, 17:25 pm


------------------------------------------