Tácgiả: Đặng Trần Côn
Ngườidịch: dchph
This is a translation of Chinhphụngâm, originally composed in Literary Chinese by Đặng Trần Côn. My intent is not to rival the celebrated Nôm rendition attributed to Đoàn Thị Điểm, but rather to challenge myself in the course of exploring the roots of the Vietnamese language.
While researching the origins of Vietnamese, I came across a reprint of a handwritten Nôm manuscript titled Chinhphụngâm Diễnca, published by Cơsở Đông Tiến in 1988 (USA). The publication asserts that the Nôm version was penned by Madam Đoàn Thị Điểm herself, yet offers no supporting evidence. Upon close examination, I find this claim untenable. The manuscript exhibits inconsistent use of variant Nôm characters for the same word—even within a single sentence—and includes redundant phrasing that I have deliberately omitted in my translation. Such redundancies violate the structural integrity of the Songthất Lụcbát form.
Moreover, it is worth recalling the long-standing scholarly debate over whether Phan Huy Ích, not Đoàn Thị Điểm, may have been the true author of the Nôm version. Compounding the confusion, the Quốcngữ transcription printed alongside the Nôm facsimile in the Đông Tiến edition diverges significantly from the Nôm text—featuring discrepancies in diction nearly every other line, and even including four additional lines (317–320) absent from the Nôm manuscript. It is unclear whether Đông Tiến was aware of these inconsistencies.
Nevertheless, this version represents a distinct Nôm variant—differing subtly in word choice and usage from other Quốcngữ editions currently in circulation. Precisely because it is a Nôm version, I believe its verses may hew more closely to the original than the often “tamsao thấtbổn” renderings found in modern Quốcngữ. For this reason, I have chosen to translate this Nôm version into Quốcngữ, with the hope that it may offer a meaningful contribution to the study of Classical Vietnamese literature and historical linguistics.
In this translation, I adopt the Quốcngữ năm 2020 convention, wherein all disyllabic words are written as unified compounds. This orthographic approach reflects, with greater linguistic and scientific fidelity, the reality that Vietnamese is not a monosyllabic language, contrary to the assumptions of some earlier scholars.
Chinhphụngâm
| Nguyênbản chữHán |
Đoàn Thị Điểm (dchph dịch từ bản chữNôm) |
dchph (Bản Quốcngữ dịch từ bản chữHán) |
|---|---|---|
|
天地風塵 紅顏多屯 悠悠彼蒼兮誰造因 鼓鼙聲動長城月 烽火影照甘泉雲 九重按劍起當席 半夜飛檄傳將軍 清平三百年天下 從此戎衣屬武臣 使星天門催曉發 行人重法輕離別 弓箭兮在腰 妻孥兮別袂 獵獵旌旗兮出塞愁 喧喧簫鼓兮辭家怨 有怨兮分攜 有愁兮契闊 良人二十吳門豪 投筆硯兮事弓刀 直把連城獻明聖 願將尺劍斬天驕 丈夫千里志馬革 泰山一擲輕鴻毛 便辭閨閫從征戰 西風鳴鞭出渭橋 渭橋頭清水溝 清水邊青草途 送君處兮心悠悠 君登途兮妾恨不如駒 君臨流兮妾恨不如舟 清清有流水 不洗妾心愁 青青有芳草 不忘妾心憂 語復語兮執君手 步一步兮牽君襦 妾心隨君似明月 君心萬里千山箭 擲離杯兮舞龍泉 橫征槊兮指虎穴 云隨介子獵樓蘭 笑向蠻溪談馬援 君穿壯服紅如霞 君騎驍馬白如雪 驍馬兮鸞鈴 征鼓兮人行 須臾中兮對面 頃刻裡兮分程 分程兮河梁 徘徊兮路旁 路旁一望兮旆央央 前車兮北細柳 後騎兮西長楊 騎車相擁君臨塞 楊柳那知妾斷腸 去去落梅聲漸遠 行行征旆色何忙 望雲去兮郎別妾 望山歸兮妾思郎 郎去程兮濛雨外 妾歸處兮昨夜房 歸去兩回顧 雲青兮山蒼 郎顧妾兮咸陽 妾顧郎兮瀟湘 瀟湘煙阻咸陽樹 咸陽樹隔瀟湘江 相顧不相見 青青陌上桑 陌上桑,陌上桑 妾意君心誰短長 自從別後風沙隴 明月知君何處宿 古來征戰場 萬里無人屋 風熬熬兮打得人顏憔 水深深兮怯得馬蹄縮 戍夫枕鼓臥龍沙 戰士抱鞍眠虎陸 今朝漢下白登城 明日胡窺青海曲 青海曲青山高復低 青山前青溪斷復續 青山上雪蒙頭 青溪下水沒腹 可憐多少鐵衣人 思歸當此愁顏蹙 錦帳君王知也無 艱難誰為畫征夫 料想良人經歷處 蕭關角瀚海隅 霜村雨店 虎落蛇區 風餐露宿 雪脛冰鬚 登高望雲色 安復不生愁 自從別後東南徼 東南知君戰何道 古來征戰人 性命輕如草 鋒刃下溫溫挾纊主恩深 時刻中歷歷橫戈壯士夭 祈山舊塚月茫茫 淝水新墳風裊裊 風裊裊空吹死士魂 月茫茫曾照征夫貌 征夫貌兮誰丹青 死士魂兮誰哀弔 可憐爭鬪舊江山 行人過此情多少 古來征戰幾人還 班超歸時鬢已斑 料想良人馳騁外 三尺劍一戎鞍 秋風沙草 明月關山 馬頭鳴鏑 城上緣竿 功名百忙裏 勞苦未應閒 勞與閒誰與言 君在天涯妾倚門 倚門固妾今生分 天涯豈君平生魂 自信相隨魚水伴 那堪相隔水雲村 妾身不想為征婦 君身豈學為王孫 何事江南與江北 令人愁曉更愁昏 一個是風流少年客 一個是深閨少年婚 可堪兩年少 千里各寒暄 憶昔與君相別時 柳條猶未囀黃鸝 問君何日歸 君約杜鵑啼 杜鵑已逐黃鸝老 青柳樓前語鷾鴯 憶昔與君相別中 雪梅猶未識東風 問君何日歸 君指桃花紅 桃花已伴東風去 老梅江上又芙蓉 與我約何所 乃約隴西岑 日中兮不來 墜葉兜我簪 竚立空涕泣 荒邨喧午禽 與我約何所 乃約漢陽橋 日晚兮不來 谷風吹我袍 竚立空涕泣 寒江起暮潮 昔年寄信勸君回 今年寄信勸君來 信來人未來 楊花零落委蒼苔 蒼苔蒼苔又蒼苔 一步閒庭百感催 昔年回書訂妾期 今年回書訂妾歸 書歸人未歸 紗窗寂寞轉斜暉 斜暉斜暉又斜暉 十約佳期九度違 試將去日從頭數 不覺荷錢已三鑄 最苦是連年紫塞人 最苦是千里黃花戍 黃花戍誰無堂上親 紫塞人誰無閨中婦 有親安可暫相離 有婦安能久相負 君有老親鬢如霜 君有兒郎年且孺 老親兮倚門 兒郎兮待哺 供親餐兮妾為男 課子書兮妾為父 供親課子此一身 傷妾思君今幾度 思君昨日兮已過 思君今年兮又暮 君淹留二年三年更四年 妾情懷百縷千縷還萬縷 安得在君邊 訴妾衷腸苦 妾有漢宮釵 曾是嫁時將送來 憑誰寄君子 表妾相思懷 妾有秦樓鏡 曾與郎初相對影 憑誰寄君子 照妾今孤另 妾有鉤指銀 手中時相親 憑誰寄君子 微物寓慇懃 妾有搔頭玉 嬰兒年所弄 憑誰寄君子 他鄉幸珍重 昔年音信有來時 今年音稀信亦稀 見雁枉然思塞帛 聞霜漫自製綿衣 西風欲寄無鴻便 天外憐伊雪雨垂 雪寒伊兮虎帳 雨冷伊兮狼幃 寒冷般般苦 天外可憐伊 錦字題詩封更展 金錢問卜信還疑 幾度黃昏時重軒人獨立 幾回明月夜單枕鬢斜攲 不關酖與酣惛惛人似醉 不關愚與惰懵懵意如癡 簪斜委鬌髼無奈 裙褪柔腰瘦不支 晝沈沈午院行如墜 夕悄悄湘簾捲又垂 簾外窺日出枝頭無鵲報 簾中坐夜來心事只燈知 燈知若無知 妾悲只自悲 悲又悲兮更無言 燈花人影總堪憐 咿喔雞聲通五夜 披拂槐陰度八磚 愁似海 刻如年 強燃香花魂消檀炷下 強臨鏡玉筋墜菱花前 強援琴指下驚停鸞鳳柱 強調瑟曲中悲遏鴛鴦絃 此意春風若肯傳 千金借力寄燕然 燕然未能傳 憶君迢迢兮路如天 天遠未易通 憶君悠悠兮思何窮 懷人處傷心胸 樹葉青霜裡 蛩聲細雨中 霜斧殘兮楊柳 雨鋸損兮梧桐 鳥返高舂 露下低叢 寒垣候虫 遠寺曉鐘 蟋蟀數聲雨 芭蕉一院風 風裂紙窗穿帳隙 月移花影上簾櫳 花前月照月自白 月下花開花自紅 月花花月兮影重重 花前月下兮心忡忡 千般懶萬事慵 慵女工錦軸恥拋鴛對偶 慵婦巧金針羞刺蝶雌雄 慵粧對曉空施粉 慵語終朝悶倚窗 倚窗倚窗復倚窗 郎君去兮誰為容 誰為容兮空盤桓 郎君去兮隔重關 何啻天帝孫冷落泣銀渚 何啻姮娥婦凄凉坐廣寒 藉愁兮為枕 煮悶兮為餐 欲將酒制愁愁重酒無力 欲將花解悶悶壓花無顏 愁悶總為愁悶誤 悶愁化作九泉灘 試瓊笙兮不成響 抱銀箏兮不忍彈 思遠塞兮行路難 念征夫兮囊索單 鵑聲啼落關情淚 樵鼓敲殘帶憊肝 不勝憔悴形骸軟 始覺睽離滋味酸 滋味酸兮酸更辛 酸辛端的為良人 為良人兮雙妾淚 為良人兮隻妾身 妾身不到君征帳 妾淚不到君征巾 惟有夢魂無不到 尋君夜夜到江津 尋君兮陽台路 會君兮湘水濱 記得幾番歡會處 無非一枕夢中春 此身反恨不如夢 隴水函關與子親 夢去每憎驚更斷 夢回又慮幻非真 惟有寸心真不斷 未嘗頃刻少離君 心不離君未見君 凭高幾度望征輪 望君何所見 江洲滿白蘋 燕草披青縷 秦桑染綠雲 南來井邑半兵塵 落日平沙鷺一群 望君何所見 官路短長亭 雲間吳樹暗 天際蜀山青 北來禾黍半荒城 微雨江樓笛一聲 望君何所見 崆山葉做堆 自飛青野雉 自舞隔江梅 東去煙嵐慘不開 西風飄薄鳥聲哀 望君何所見 河水曲如鉤 長空數點雁 遠浦一歸舟 西去松楸接斷蕪 行人微沒隔蒼洲 望盡天頭又地頭 幾日登樓更下樓 凍雲阻盡相思眼 何處玉關征戰陬 恨無長房縮地術 恨無仙子擲巾符 有心誠化石 無淚可登樓 回首長堤楊柳色 悔教夫婿覓封侯 不識離家千里外 君心有似妾心不 君心倘與妾心似 妾亦於君何怨尤 妾心如花常向陽 只怕君心如流光 流光一去不復照 花為流光黃又黃 花黃更向誰邊笑 流光不肯一迴照 黃花卻為流光老 黃花老兮落滿墻 花落如今經幾霜 庭蘭兮已摘 江藻兮又芳 攝衣步前堂 仰目觀天章 纖雲時彷彿 北斗忽低昂 河水翻明滅 參躔乍現藏 月照兮我床 風吹兮我牆 玉顏隨年削 丈夫猶他方 昔為形與影 今為參與商 君邊雲擁青絲騎 妾處苔生嚮屧廊 廊內春風日將歇 可憐誤盡良時節 良時節姚黃魏紫嫁東風 良時節織女牛郎會明月 昨日未笄西家娘 今年已歸東鄰倩 可怜兔守一空房 年年誤盡良時節 良時節兮忽如梭 人世青春容易過 況復是春悶未消秋恨續 況復是合歡更少別愁多 別愁秋恨兩相磨 蒲柳青青能幾何 空漢惜淚咨嗟 只怕白到文君頭空嘆惜 只恐花到潘郎鬢浪咨嗟 嘆惜何以為 顏色猶紅如嫩花 咨嗟何以為 光陰一擲無回戈 咨命薄惜年花 紛紛少婦幾成皤 香閣重懷陪笑臉 花樓尚記解香羅 恨天不與人方便 底事到今成坎坷 坎坷坎坷知奈何 為妾嗟兮為君嗟 君不見野外雙鴛鴦 甘心不忍兩分張 又不見樑間雙燕燕 白首何曾忘眷戀 鶼鶼也無情 比翼相隨過一生 蛩蛩也無知 並驅到老不相違 路柳曾傳連理處 池蓮亦有並頭時 負蟨兮駏驉 抱蘿兮菟絲 何人生之相違 嗟物類之如斯 安得在天為比翼鳥 在地為連理枝 寧甘死相見 不忍生相離 雖然死相見 曷若生相隨 安得君無老日 妾常少年 願為影兮隨君邊 君有行兮影不遠 君依光兮妾如願 願君許國心如丹 願君庇民身如鐵 饑來吞下月氏頭 渴來飲下單于血 何幸期門鋒刃中 老天著意護英雄 護英雄百戰功 長驅駟馬靜關東 關東關北休傳箭 山尾山頭早掛弓 捷色旌旗辭塞月 凱歌將士背邊風 勒詩兮燕然石 獻馘兮未央宮 未央宮兮向天朝 挽銀河兮洗刀弓 詞人刪下平淮頌 樂府歌傳入漢謠 凌煙閣兮秦叔寶 麒麟台兮霍嫖姚 天長地久茅苴券 子蔭妻封爵祿標 有愁兮此日 得意兮來時 妾非蘇家癡心婦 君亦洛陽好男兒 歸來倘佩黃金印 肯學當年不下機 願為君兮解征衣 願為君兮捧霞巵 為君梳櫛雲鬟髻 為君粧點玉臙脂 取君看兮舊淚帕 訴君聽兮舊情詞 舊情詞兮換新聯 語新話舊兮酒杯前 淺斟兮慢慢 底唱兮連連 斟不斟兮蒲城釀 唱不唱兮紫騮篇 願斟九醞兮唱雙聯 與君整頓兮舊姻緣 交頸成雙到老天 償了功名離別債 相憐相守太平年 太平年願君止戈置 若然此別妾何淚 將會之期將寄言 嗟乎丈夫當如是 |
Thuở trờiđất nổi cơn gióbụi, Khách máhồng nhiều nỗi truânchuyên, Xanh kia thămthẳm từng trên, Vì ai gâydựng cho nên nỗi nầy? Trống Tràngthành lunglay bóngnguyệt, Khói Camtuyền mờmịt thứcmây, Cửutrùng gươmbáu trao tay, Nửađêm truyềnhịch địnhngày xuấtchinh. Nước thanhbình ba trăm năm cũ, Áo nhung trao quanvũ từ nay. Sứtrời sớm giục đường mây, Phépcông là trọng, niềmtây sá nào. Đường giongruổi lưng đeo cungtiễn, Buổi tiễnđưa lòng bận thênoa, Bóng cờ tiếng trống xaxa, Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng. Chàng tuổitrẻ vốn giòng hàokiệt, Xếp bútnghiên theo việc đaocung, Thành liền mong hiến bệrồng, Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặmnghìn da ngựa, Gieo Tháisơn nhẹ nửa Hồngmao, Giã nhà đeo bức chiếnbào, Thét roi cầu Vị, àoào gió thu. Ngòi đầucầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non, Đưa chàng lòng dặcdặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền. Nước có chảy mà phiền chẳng dã, Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây. Dặn rồi dặn lại cầm tay, Bước đi một bước giâygiây lại dừng. Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi, Chàng sầu xa tìm cõi Thiênsan. Múa gươm tiễnrượu chưa tàn, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. Săn Lâulan rằng theo Giớitử, Tới Mankhê bàn sự Phụcba. Áo chàng đỏ tựa sương pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Tiếng nhạc ngựa lẫn chen tiếng trống, Giáp mặt rồi phút bỗng chiatay, Hàlương chiarẽ đường này, Bên đường trông lá cờ bay ngùingùi. Quân trước đã gần ngoài doanhliễu, Kỵ sau còn khuấtnẽo Tràngdương, Quân đưa chàng ruổi lênđường, Liễudương biết thiếp đoạntrường nầy chăng? Tiếng địch thổi nghe chừng đồngvọng, Hàng cờ đi theo bóng phấtphơ, Dấu chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn rặngnúi ngẩnngơ nỗi nhà. Chàng thì đi cõixa mưagió, Thiếp thì về buồng cũ chiếuchăn, Đoáitrông tiễn đã cáchngăn, Tuôn màu mây biếc phơi hằn non xanh. Chốn Hàmkinh chàng còn ngãnhlại, Cõi Tiêutương thiếp hãy trông chàng. Khói Tiêutương cách Hàmdương, Cây Hàmdương cách Tiêutương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanhxanh những mấy ngàndâu. Ngàndâu xanhngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Chàng từ đi vào đồi giócát, Đêm trăng nầy nghỉmát phương nao? Xưa nay chiếnđịa dường bao, Nhà không muôndặm xiếtbao dãidầu. Hơi gió lạnh người rầu mặtdạn, Giòng nước sâu ngựa nãn chânbon. Ôm yên gối trống đã chồn, Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh. Nay Hán xuống Bạchthành đóng lại, Mai Hồ vào Thanhhải dòmqua. Hình khe thế núi gầnxa, Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao. Sương đầu núi buổichiều như gội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu. Xót người áogiáp bấylâu, Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. Trên trướnggấm thấuhay chăng nhẻ? Trạng chinhphu ai vẽ cho nên, Tưởng chàng giongruổi mấy niên, Chẳng nơi Hãnhải thì miền Tiêuquan. Đà trắctrở đòi ngàn xàhổ, Lại lạnhlùng những chỗ sươngphong, Lên cao trông thức mây lồng, Lòng nào là chẳng độnglòng bithương. Từ chàng đi đôngnam khơinẽo, Biết nay chàng tiếnthảo nơiđâu? Những người chinhchiến bấylâu, Nhẹ xem tínhmệnh như màu cỏcây. Nức hơi ấm ân dày từ trước, Trải chốn nghèo tuổi đuợc baonhiêu? Nonkỳ quạnhquẽ trăng treo, Bến phi gió thổi hiuhiu mấy gò. Hồn tửsĩ gió ùù thổi, Mặt chinhphu trăng dõidõi soi, Chinhphu tửsĩ mấy người, Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn. Dấu binhlủa nướcnon như cũ, Kẻ hànhnhân qua đó chạnhthương. Phậntrai già ruổi chiếntrường, Chàng Siêu tóc đã điểmsương mới về. Tưởng chàng trải nhiều bề khốnkhó, Ba thước gươm một bó nhungyên, Xôngpha gióbãi trăngngàn, Kiếm treo đầu ngựa, giáo lan mặt thành. Hội côngdanh trăm đuờng rộnrã, Những nhọcnhằn nào đã nghỉngơi, Nỗiniềm biết ngỏ cùng ai? Thiếp trong cánhcửa chàng ngoài chânmây. Trong cửa nầy đãđành phận thiếp, Ngoài mây kia há kiếp chàng vay? Những mong cánước vuivầy, Nàongờ đôingã nướcmây cáchvời. Thiếp chẳng tưởng ra người chinhphụ, Chàng há từng học lũ vươngtôn, Cớsao cáchtrở nướcnon, Khiến người thôi sớm thì hôm những rầu. Tưởng phonglưu đang chừng niênthiếu, Sánh nhau cùng dandíu chữ duyên, Nỡnào đôilứa thiếuniên, Quansan để cách hànhuyên saođành. Thuở lâmhành oanh chưa bénliễu, Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca, Nay quyên đã giục oanh già, Ýnhi lại gáy trước nhà líulo. Thuở đăngđồ mai chưa quen gió, Hỏi ngàyvề chỉ độ đào bông, Nay đào đã quyến gió đông, Phùdung lại nở bên sông bơsờ. Hẹn cùng ta Lũngtây núi ấy, Sớm thường trông nào thấy hơităm, Ngậpngừng lá rụng cành trâm, Hoangthôn nghe tiếng ngọcầm laoxao. Hẹn cùng ta Hándương cầu nọ, Sớm lại tìm nàocó tiêuhao. Ngậpngừng gió thổi lá bào, Bãi hôm tuônchảy nướctrào mênhmông. Tin thường lại người không thấy lại, Đạp hoa tàn đã trải rêu xanh. Rêu xanh mấy lớp chungquanh, Lộ đi một bước trăm tình ngẩnngơ. Thư thường lại người chưa thấy lại, Bứcrèm thưa lần dãi bóngdương, Bóngdương mấy buổi xuyên ngang, Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai. Thử tính lại diễnkhơi ngày ấy, Tiền sen nay đã nẩy là ba, Xót người lầnlửa ải xa, Xót người nương chốn hoànghoa dặmdài. Tình giathất nào ai chẳng có, Kìa từthân khuêphụ nhớthương. Tóc già phơphất máisương, Conthơ măngsữa vả đương bùtrì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Miệng hàinhi chờ bữa mớmcơm, Ngọtbùi thiếp đã hiếunam, Khuyên con đènsách, thiếp làm phụthân. Một mình thiếp cungthân khoatử, Nỗi quanhoài ngangngửa biếtbao, Nhớ chàng trải mấy sươngsao, Xuân từng đổi mới, đông nào còn xa. Kể năm đã tưba năm chẳn, Mốilòng trămnghìn quấn ngỗnngang, Ước gì gầngũi tấcgang, Dỡ niềm cayđắng để chàng tỏhay. Thoa Cunghán của ngày xuấtgiá, Gương lầu Tần dấu đã soi chung, Cậy ai mà gởi tới cùng, Ngỏ chàng thấu hết tấmlòng tươngtư. Nhẫn đeo tay mọikhi mắt ghé, Ngọc cài đầu thuởbé vuichơi, Cậy ai mà gởi tới nơi, Để chàng trântrọng dấu người tươngthân. Trải mấy xuân tin đi tin lại, Tới xuân nầy tin hãy vắng không, Thấy nhàn luốngtưởng thưphong, Nghe sương luốngsắm áobông sẵnsàng. Giótây nổi không đường hồngtiện, Xót cõingoài tuyết quyến mưa sa, Mànmưa trướngtuyết xôngpha, Nghĩ thêm lạnhlẽo kẻ ra cõingoài. Đề chữ gấm phong thôi lại mở, Gieo quẻtiền tin nửa còn ngờ, Trời hôm đứng lặng ngẫnngơ, Trăng khuya nươnggối bơthờ giómay. Há như ai hồn say bóng lẫn, Bỗng thơthơ thẩnthẩn hưkhông, Trâm cài lược giắt thẹnthuồng, Lệch làn tóc rối lỏng vòng lưngeo. Dạo hiên vắng đêm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòiphen, Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng? Đèn có biết ví bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bithiết màthôi, Buồnrầu nói chẳng nên lời, Hoađèn kia với bóng người kháthương. Gà eoóc gáy sương năm trống, Liễu phấtphơ rủbóng bốnbên, Khắcgiờ đằngđẵng như niên, Mốisầu dằngdặc như miền bểxa. Hương gượng đốt hồn đà mỏimệt, Gương gượng soi, lệ kết chứachan, Sắtcầm gượng gảy ngónđàn, Dâyuyên kinhđứt, phiếmloan chạnhchùng. Lòng này gởi gióđông có tiện, Nghìnvàng xin gởi đến non Yên, Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thămthẳm đường lên bằng trời. Trời thămthẳm xavời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đauđáu nào xong, Cảnh buồn người thiếttha lòng, Hình cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun. Sương như búa đẽo mòn gốc liễu, Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô, Chồm tuyết phủ bụi chim khua, Sâu tường kêu vẳng, chuôngchùa triểnkhơi. Vài tiếng dế, nguyệt rơi trước ốc, Một hàng tiêu gió giục ngoài hiên, Lá màn lay, ngọngió xuyên, Buồng hoa theo bóngnguyệt lên trước rèm. Hoa dãi nguyệt, nguyệt dìm một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông, Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùngtrùng, Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu. Đâuxiết kể muôn sầu nghìn não, Từ nữcông phụxảo đều nguôi, Biếng cầm kim, biếng đưa thoi, Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa. Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói. Sớm lại chiều dòidõi nương song, Nương song luống ngẫnngơ lòng, Vắng chàng điểmphấn tranghồng với ai. Biếng trangđiểm lòng người sầutủi, Xót nỗi chàng ngoài cõi giangbăng, Khác gì ả Chức, chị Hằng, Bến Ngân sùisụt cungtrăng chốcmòng. Sầu ôm nặng ai chồng làm gối, Muộn ăn no ai thổi làm cơm, Rượu cùng hoa rắp tảđàm, Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi. Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng, Ôm đàntranh mấy phiếm rời tay, Xót người hànhdịch bấynay, Dặm dài thêm mỏi hết đầy lại vơi. Ca quyên kêu làm rơi nướcmắt, Trống tiều gõ như đốt buồng gan, Võvàng đổikhác dungnhan, Khuêly mới biết tântoan dường nầy. Nếm chuacay tấmlòng mới tỏ, Chuacay nầy há có vì ai, Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, Vì chàng thân thiếp lẻloi một bề. Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng, Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn, Vui còn hồn mộng được gần, Đêmđêm thường đến giangtân tìm người. Tìm chàng thuở Dươngđài lối cũ, Gặp chàng nơi Tươngphố bến xưa, Sumvầy mấy lúc tìnhcờ, Chẳngqua trên gối một giờ mộngxuân. Giận thiếp thân lại chẳng bằng mộng, Được gần chàng bến Lũng thànhquan, Khi mơ những tiếc khi tàn, Tình trong giấcmộng muônvàn cũng không. Vui có một tấmlòng chẳng đứt, Vốn theo chàng giờkhắc nào nguôi, Lòng theo song chửa thấy người, Lên cao mấy lúc trông vời bánhxe. Trông bến Nam bãi che mặt nước, Cỏbiếc um, dâu mướt màu xanh, Nhà thôn gió bụi chungquanh, Một đoàn âu lộ trước ghềnh chơi hôm. Trông đường bắc đôi chòm quánkhách, Rườmrà cây, xanh ngắt núinon, Lúa thành thoithóp bên cồn, Mưa thôi ngọn địch véovon bên lầu. Non đông thấy lá hầu chất đống, Trĩ tập bay mai cũng bẻbai, Khói mù nghingút ngànkhơi, Con chim bạtgió lạcloài kêu sương. Sông Tây thấy nước dường uốnkhúc, Nhạn bay không, sóng giục thuyền câu, Ngàn thung chenchúc chòm dâu, Cách ghềnh thấpthoáng người đâu đi về. Trông bốnbề chântrời mặtđất, Lênxuống lầu thấmthoắt đòiphen, Lớp mây ngại mặt trôngnhìn, Biết đâu bờcõi là miền Ngọcquan. Gậy rút đất, ỷkhôn họcchước, Khăn gieocầu nào được thấy tiên, Lòng nầy hoá đá cũng nên, E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Lúc ngãnhlại ngắm màu dươngliễu, Thà khuyên chàng đừng chịu tướcphong, Chẳng hay muôndặm ruổidong, Lòng chàng biết có như lòng thiếp chăng? Lòng chàng ví cũng bằng như thế, Lòng thiếp đâu dám nghĩ gầnxa, Hướngdương lòng thiếp dường hoa, Lòng chàng lẩnthẩn e tà bóngdương. Bóngdương để hoa vàng chẳng đoái, Hoa để vàng bởi tại bóngdương, Hoa vàng hoa rụng quanh tường, Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần. Chồi lan nở trước sân đã hái, Ngọn tần kề bên bãi đưa hương, Sửa xiêm dạobước tiềnđường, Ngửa trôngxem vẻ thiênchương thẩnthờ. Bóng ngânhà khi mờ khi tỏ, Độ khuêtriền buổi có buổi không, Thứcmây đòilúc nhạtnồng, Chuôi sao Bắcđẩu thôi đông lại đoài. Mặt trăng tỏ thường soi bên gối, Bừngmắt trông sương gội cành khô, Lạnhlùng thay bấynhiêu thu, Giómay hiuhắt trên đầu tường vôi. Một năm một nhạt mùi sonphấn, Trượngphu còn thơthẩn miềnkhơi. Xưa sao hìnhảnh chẳng rời, Bâygiờ nỡ để cáchvời Sâm Thương. Chàng giong ngựa dặmtrường mây phủ, Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in, Gióxuân ngày một vắng tin, Khá thương lỡ hết mấy phen lươngthì. Xẩy nhớ khi cành diêu đoá nguỵ, Trước gióxuân vàng tía sánh nhau. Nọ người ả Chức, chàng Ngâu, Tới trăng thu lại bắc cầu qua sông. Thiết một kẻ buồng không luống giữ, Thờitiết lạnh, lầmlỡ xiếtbao. Thoi đưa ngàytháng ruổi mau, Người đời thấmthoắt qua màu xuânxanh. Xuân thu để giận quanh trong dạ, Biệt ly nầy buồn quá khi vui, Oánsầu nhiều nỗi tơibời, Vóc bồliễu dễ épnài chiều xuân. Kìa Vănquân mỹmiều thuởtrước, E tới khi đầu bạc mà thương, Mặt hoa nọ gã Phanlang, Sợ khi máitóc basương cũng ngừng. Nghĩ nhansắc đươngchừng hoa nở, Tiếc quangâm lầnlữa gieo qua, Nghĩ mệnhbạc, tiếc niênhoa, Gáitơ mấy chốc xảy ra nạdòng. Gác hương nọ mơmòng vẻ mặt, Lầu hoa kia phảngphất hơi sương, Trách trời sao để dởdang, Thiếp vì thiếp, lại vì chàng chẳng quên. Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội, Cũng dậpdìu chẳng vội phântrương, Chẳng xem chim yến trên rường, Bạcđầu không nỡ đôi đường chia nhau. Kìa loài sâu đôi đầu cũng sánh, Nọ loài chim chắpcánh cùng bay. Tử sen là giống cỏcây, Đôi hoa cùng nở, đôi cây cũng liền. Ầy loàivật tìnhduyên còn thế, Sao kiếpngười nỡ để đấy đây. Thiếp xin muôn kiếp duyên này, Như chim liền cánh, như cây liền cành. Đành muôn kiếp chữ tình thì vậy, Theo kiếp nầy hơn thấy kiếp sau, Thiếp xin chàng chớ bạcđầu, Thiếp thì giữmãi lấy màu trẻtrung. Xin làm bóng theo cùng chàng vậy, Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên, Chàng nương vầngnhật phỉnguyền, Mọi bề trunghiếu thiếp xin vẹntròn. Lòng hứaquốc thắmson ngănngắt, Sức týdân, kìnhsắc trơtrơ, Máu Thiềnvu, quắc Nhụcchi, Ầy thì buổi uống, ấy thì buổi ăn. Mũi dòng vác đòi lần hămhở, Đã lòng trời gìngiữ người trung, Hộ chàng trăm trận nên công, Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài. Bóng xíkỳ giã ngoài quanải, Tiếng khảica trở lại thầnkinh. Non Yên tạcđá đềdanh, Triềuthiên vào trước cungđình dângcông. Nước Doanhhán vác đòng rữa sạch, Khúc nhạctừ giéogiắc lừng khen, Tài so Tần, Hoắc vẹntuyền, Tên ghi gác khói, tượng truyền đài Lân. Nền huântướng đaicân rạngvẻ, Chữ đồnghưu bia để nghìnđông, Ấn trên tửấm thêphong, Hiểnvinh thiếp cũng đượm chung hươngtrời. Thiếp chẳng dại như người Tôphụ, Chàng hẳn không như lũ Lạcdương, Khi về đeo quả ấnvàng, Trên khungcửi dám dẫyduồng làmcao. Xin vì chàng treo bào cởi giáp, Xin vì chàng rũ lớp phongsương, Vì chàng tay chuốc chén vàng, Vì chàng điểmphấn đeo hương nãonùng. Dở khăn lệ chàng trông từng tấm, Đọc thơ sầu chàng gẫm từng câu. Câu vui đổi với câu sầu, Rượu rồi cùng kể trướcsau mọi lời. Sẽ rót vơi lầnlần đòi chén, Sẽ ca dần renrén từng liên, Liênngâm đốiẩm từng phen, Cùng chàng kết lại mốiduyên đến già. Cho bỏ lúc sầu xa cách nhớ, Giữgìn nhau vui thuở thanhninh, Ngâmnga mong gởi chữ tình, Dường nầy âuhẳn tàilành trượngphu.
dchph
SF 1992 |
1. Đấttrời gióbụi, Máhồng lậnđận. Biết trách ai đây, trờixanh vờivợi. Trống Trườngthành rungđộng ánhtrăng thanh, 5. Binhlửa soi bóng mây mấy tầng. Chốn cửutrùng Vua truyền gươmlệnh, Nửađêm phónghịch triệu tướngquân. Thanhbình ba trăm năm thiênhạ, Từđây áonhung trao võquan. 10. Sứtinh giụcgiã truyền Thiênlệnh, Người đi giãbiệt vì nonnước. Lưng đeo cungtiển, Biệtquyết conthơ vợdại, Theo cờ lớplớp, sầu ra ải, 15. Chiêngtrống trỗi rồi, giãbiệt thôi. Mối hờn kia ai gánh, Nỗi sầu nầy ai chia? Chàng vừa tuổi đôimươi, Bỏ bútnghiên theo việc cungđao, 20. Quyết lấy thành liền hiến Vua tôi, Mang thước gươm đi chém giặcthù. Trượngphu chí dặmngàn da ngựa, Tháisơn xem nhẹ tựa hồngmao, Xa vợ hiền đitrận. 25. Gió tây sông Vị vọng vócâu, Đầucầu nước chảy trongveo, Venđường cỏ rũ theo triềunước trôi, Đây chỗ đưa chàng lòng héohắt, Chân không đuổi kịp ngựa chàng, 30. Tiếc không bắtkịp ghe chàng trên sông. Vắt trong làn nước chảy, Rữa sao sạch sầu nầy. Xanhxanh bờ cỏ dại, Không quên lòng thiếp ngây. 35. Lời tiếp lời tay lại cầm tay, Bước đi một bước thêm bịnrịn, Thiếp làm ánhtrăng theodõi, Nhưng lòng chàng như vạn dặm tên bay, Đang múa gươm saymen chiếnđấu, 40. Giơ ngang ngọngiáo lùng hangcọp, Quyết săn cho được beohùm, Đắcý cười vang ngạonghễ. Màu áotrận rực như ránghồng, Đẫm thắm màu lông ngựa trắng, 45. Ngưa chàng lụclạc vanglừng, Trống trỗi giục chinhnhân. Phútgiây đốimặt, Khoảnhkhắc chiatay, Xa nhau đây chỗ Hàlương! 50. Bồihồi bên bờlộ, Đứng nhìn phấtphới cờ bay, Toán quân đầu khuất dần ngõ bắc, Đoàn lính sau vừa đến cửa tây. Dồndập ngựaxe ra quan-ải, 55. Dươngliễu nào hay nỗi đắngcay. Tiếng hoamai rụng xa dần, Cờ theo nhịpbước quânhành . Ngóng ángmây trôi, chàng biệt thiếp, Trông núi xamờ, thiếp nhớ chàng. 60. Chốn chàng đi mùmịt mưasa, Nơi thiếp về chỗ mới đêmqua. Chân bước mà đầu còn ngẫnglại, Chỉ thấy mây xanh và núi xanh. Chàng quaynhìn lại chốn Hàmdương, 65. Thiếp ngóngtrông sang bến Tiêutương. Khói Tiêutương mờkhuất Hàmdương, Cây Hàmdương cách Tiêutương, Nhìn nhau mà chẳng thấy, Chỉ thấy màu dâu xanh, 70. Xanhxanh một bễdâu, "Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?". Kể từ giãbiệt lũng Phongsa, Chỉ biết bầubạn cùng trăngsao. Xưanay đi chinhchiến, 75. Muôndặm chốn không nhà, Gió ào lạnh rát mặt người, Sông sâu khiếp rụt vócâu. Thân línhthú, gối trống nằm cồn, Làm chiếnsĩ, bao yên ngủ cát, 80. Nửađêm dậy công đồn địch, Sớmmai chờ địch dưới chân thành. Nơi nầy chỉ thấy non xanh caongất, Dưới bốnbề vựcsâu thămthẳm, Đỉnhtrời mờmờ phủ tuyết, 85. Đáy khe ràorào ghềnhthác. Thươngthay bao kẻ khoát chiến-y, Mong ngày về trông mònmõi mắt, Quânvương trong trướnggấm có hay, Chinhphu giankhổ dường nào? 90. Mườngtượng ra những chốn chàng qua, Góc Hãnhải và chốn Tiêuquan, Thônsương quángió, Hang hùm ổ rắn, Nằmsương gốiđất, 95. Dầmmưa lội tuyết. Trèocao trông mây xám, Lòng nào chẳng sinh sầu. Kể từkhi chiatay đồi Đôngnam, Chỉ có đồi hay chàng nơi nao. 100. Xưanay kẻ đitrận, Sinhmệnh rẽ như bèo. Dưới đườnggươm mũigiáo, lòng nặngnợ Chúatôi, Giờkhắc nầy trángsĩ múa giáo tunghoành. Non Kỳ mồ cũ trăng manmác, 105. Sông Phì mã mới gió hiuhiu, Gió hiuhiu ru hồn tửsĩ, Trăng mênhmang soimặt chinhphu. Mặt chinhphu ai tôvẻ? Hồn tửsĩ ai điếutang? 110. Thương nonsông chinhchiến, Người đi chốn đó tình bao nặng, Xưanay chinhchiến mấy người về, Chiếntrận quayvề đầu đã bạc. Mườngtượng chàng ngoài trậnmạc, 115. Ba thước gươm một cổ nhungyên. Gió thu cỏ cát, Trăng sáng quansan, Đầu ngựa chuông vang, Cờ bay rợp thành. 120. Côngdanh trăm bề bậnbịu, Khổ-nhọc chẳng phút rãnhrang. Nỗiniềm biết tỏ cùng ai? Thiếp trong khungcửa, chàng ngoài chânmây. Trong khungcửa kiếp này thiếp chịu, 125. Ngoài chânmây nào phải ý chàng? Ý chàng thoảchí tangbồng hồthuỷ, Thiếp nào camchịu cáchchia kiếp nầy. Thiếp đâu nghĩ làm người chinhphụ, Chàng há chẳng học làm côngtử, 130. Khi Giangbắc lúc Giangnam, Khiến lòng sớm sầu tối càng sầu. Một kẻ là trang thiếuniên nho-nhã, Một người là thiếunữ chốn khuêphòng. Hai máiđầuxanh, 135. Đành xa nhau ngàntrùng. Nhớ xưa cùng chàng giãbiệt, Cành liễu lađà, hoàng-anh chưa hót. Hỏi chàng baogiờ về, Chàng hẹn lúc đỗquyên ca. 140. Đỗquyên, hoàng-anh nay đã già, Liễu xanh trước lầu giờ vang tiếng ýnhi. Nhớ xưa khi cùng chàng giãbiệt, Mai ngủ chờ gióđông trong tuyết, Hỏi chàng baogiờ trởlại, 145. Chàng bảo đợi mùa hoađào. Hoađào chiều nao đã chết, Phùdung ven sông héohắt tựa mai già. Hẹn cùng thiếp nơi này, Ngọn Lũngtây năm ấy. 150.Trời ngãbóng mình ai, Lá rụng vướng tócmai. Đứng ngẫnngơ rơilệ, Hoangthôn vaüng chim kêu. Hẹn cùng thiếp nơi này, Cầu Hándương năm nọ, Chiều tàn ai chưa lại, Tà-áo phấtphơ bay, Đứng ngẫnngơ rơilệ, Sông lạnh sóng chiều phai. 160. Năm trước thư đi mong chàng về, Năm nay viết giục chàng trởlại, Tin đi mà người sao chẳng thấy. Hoadương rơirụng lối rêuxanh, 165. Rêuxanh khắpnẽo tiềnđình, Bướcđi một bước trăm tình ngỗnngang. Năm ngoái thư chàng hẹn quayvề, Năm nay vẫn lời hẹn cũ, Thư về mà người chẳng tămhơi. Rèm bên song soibóng chiềuhôm 170. Bóngchiều tịchmịch buổi hoànghôn, Hẹn rồi lỗihẹn đã baolần? Thử tính lại ngày qua từ dạo ấy, Chợt nhớ ra sen nở đã ba mùa. Khổthân línhthú lưuđồn, 175. Khổthân trấnthủ dặmngàn, Cáchxa chamẹ già, Lìabỏ vợ conthơ. Chamẹ già cáchxa sao nở? Vợ conthơ lìabỏ sao đành? 180. Chamẹ già tóc bạc như sương, Condại tuổi còn thơ. Chamẹ già thường hay tựa cửa, Conthơ còn đang chờ sữa. Thiếp thay chàng cơm hai bữa sớmtrưa, 185. Mang đènsách thiếp dạy conthơ, Một thân thiếp đeo mang. Thương thiếp nhớ chàng nay mấy dạo, Năm ngoái chợt tưởng hômqua, Năm nay đã thángtận nămcùng, 190. Rồi năm nữa năm ba, năm bốn, Muônngàn nỗi hoàimong, Ước sớm được bên chàng, Sansẻ bao nỗi khổ trong lòng. Thiếp còn đây trâm càitóc, 195. Mangtheo từ thuở lấychồng, Muốn cậy người gởi đến chàng, Để tỏ bao niềmnhớ. Thiếp còn đây tấm gươngsoi, Dùng từ thuở cùng chàng soi chung, 200. Biết nhờ ai gởi đến chàng, Để soi lòng côlẻ. Thiếp còn đây nhẫn đínhhôn, Đeo từ thuở lấychồng, Biết cậy ai gởi đến chàng, 205. Chứachan bao trìumến. Thiếp còn đây ngọc càiđầu, Conthơ thường cầm chơi, Muốn cậy người gởi đến chàng, Trântrọng chốn thahương. 210. Nămrồi còn thư chàng, Nămnay tin thưadần, Thấy nhạn về nhớ chàng chốn quansan, Nghe hơi sương vội đan áoấm, Gởi chàng lúc gió tây sang. 215. Thương chàng phươngxa giálạnh, Đêm tuyếtgiá thấm vào chăn, Mưa ướtđẫm căn lềuvải, Rétmướt muônvàn, Thươngthay cho thân chàng. 220. Thư viết rồi đọc lại mấy lần, Gieoquẻ tin-gỡ lại chẳng tin. Chiềuhôm mấy dạo mộtmình ngoài hiên, Trăng sáng đãbao đêm lẻgối, Rượu không uống mà say, 225. Lòng như dại như ngây, Tócmai trâm quên cài, Lưng eo áo lệch váy chùng. Sớmmai thơthẩn ngoài sân, Chiều đìuhiu bên rèm, 230. Trông ngoài songcửa nắng tàn, Đêm sâu chỉ có đèn thấuhiểu, Đèn có hay cũng như không, Thiếp buồn biết mình buồn. Buồn lại buồn càng biếng nói, 235. Đèn-hoa lẻbóng càng thêm tủi. Gà gáy sang canh, Cành hoè phơphất, Sầu dâng như biển, Đằngđaüng muônniên. 240. Gượng đốt trầmnhan, Hờhững soigương, Cố khảy mấy cungđàn, Tứctửi dây uyên-ương, Nhắngởi nhờ gióxuân. 245. Ngànvàng cậynhờ cánh yến, Yến nhắn giúp được chăng? Chàng nơi ngàndặm satrường, Trờimây cáchtrở, Nhớ chàng rayrức vôvàn, 250. Nhớ chàng đauđáu trong lòng. Sương ướtđẩm lá xanh, Tiếng trùng đắm trong mưa. Sương bủa cành dươngliễu, Mưa như cắt ngôđồng. 255. Chim bỡn gió mây, Sương vờn bụi lá, Sâu co hốc lạnh. Chuông chùa thanhthoát, Dế gõ nhịp mưa títách. 260. Gió lùa vườn chuối, Xuyên thấu màn song. Rèm in bóng nguyệt vờn hoa, Hoa vờn bóng nguyệt ngọcngà đanthanh. Nguyệt vờn hoa thắm mongmanh, 265. Hoa vờn nguyệt, nguyệt vờn hoa, Trước hoa dưới nguyệt mặnmà có đôi. Baonhiêu việc muônvàn saolãng, Biếng nữcông ngại dệt uyên-ương, Sợ thêu đôi bướm đẹpduyên. 270. Lười điểmphấn soigương, Sớmhôm tựa cửa biếng cười, Người bên songcửa, hồn ngoài trùngquan. Vắng chàng tiềutuî dungnhan, Môison máthắm ai màng? 275. Chàng chốn quan-ải miềnxa, Trời bày chi cảnh chialìa, Sao nơi cung Quảng chỉ mình Hằngnga? Sầu kề bên gối đêm sâu, Lót dạ bằng nỗi buồn đau, 280. Muốn mượn rượu giảisầu, sầu bấttrị, Muốn nhờ hoa tiêukhiển, hoa hờhững, Buồnrầu thêm nỗi buồnrầu, Buồn baonhiêu bận thêm sầu bấynhiêu. Thử tiêu ngọc, tiếng tịtcâm, 285. Tay không nở bấm phiếmđàn. Nghĩ tới miềnxa đường dặmngàn, Nhớ chinhphu gốilẻ đơnthân. Nãonề sao tiếng chimquyên, Trống tiều khơidậy nỗiniềm miênman, 290. Nghe chừng như xé timgan, Chialy mới thấuhiểu ngàn chuacay. Vị chuacay nếm càng thêm cay, Vì chàng mà nếm chuacay, Vì chàng mà hai hàng lệ rõ, 295. Vì chàng thân thiếp đơncôi, Muốn cùng chàng chung chăn, Muốn chung khăn lau lệ, Ôi sao chỉ là giấcmộng vàng, Tìm chàng trên bếnsông đêm, 300. Tìm chàng chốn cũ êmđềm nắng vương, Gặp chàng trên bến sông Tương, Nơi bao lần hòhẹn. Tỉnh ra mới biết mình đang mộng, Tiếc sao đời không là mộng, 305. Cùng chàng nơi sông Lũng, Hàmquan, Mơ tan rồi mộng cũng tàn, Giậtmình mới biết mộng tan theo đời. Chỉ có tấc lòng nầy chânthực, Nhớthương người trong từng khoảnhkhắc. 310. Lòng mongnhớ nhưng nào gặp được, Đứng dõitrông cõi xavời, Biết gặp chàng nơi nao? Trên sông bèo dạt, Ven bờ cỏ biếc, 315. Bể dâu xanh thấu trời mây. Trờinam bụi mờ Ầptỉnh, Một đàn cò trên bãi nắng soi, Biết gặp chàng nơinao? Đường quanlộ bao nócđình, 320. Bao tàngcây che nắng, Chânmây một giãi nonxanh, Trờibắc cỏ dại thành hoang, Tiếng địch vọng bên sông, Biết tìm chàng nơiđâu? 325. Noncao xanh rợp lá, Chim rừng vung cánh bay, Tungtăng bên sông vắng, Bờđông khói lam vờn, Chim kêu uuất bờtây, 330. Biết gặp chàng nơi nao? Giòng sông xanh khúckhuỷ, Kìa dăm cánh nhạn bay. Chuyến đò-ngang về bến, Rừng tiếp nối bờtây, 335. Người đi cáchtrở nonxanh. Trông cuối chântrời cuối chânmây, Dămngày lênlầu lại xuốnglầu, Mây dày mấy lớp che ngang mắt, Mờ khuất Ngọcquan chốn chiếnchinh? 340. Giận không thungắn được khônggian, Giận không như tiên gieo cầulụa. Thiếp muốn hoáthân thành đá, Trên lầu vắng thôi nhỏlệ vờitrông, Ngoảnhđầu chỉ một màu dươngliễu, 345. Lỡ tiếc chàng đuổi bóng lợidanh. Không biết chàng ngàndặm miềnxa, Lòng chàng có như lòng thiếp, Có mơ hai tráitim nhịp cùng hoà, Bên chàng thiếp còn gì nuốitiếc? 350. Lòng thiếp như hoa tìm ánhdương, Chỉ e lòng chàng như tianắng, Tianắng thoángqua không trởlại, Hoa vì thiếu nắng úavàng, Hoa còn vì ai mĩmcười, 355. Nắng tàn không buồn quaylại, Hoa vàng vì nắng úatàn. Hoa tàn rơirụng ven tường, Hoa rơi mấy độ phongsương? Giòlan giờ đã hái, 360. Vensông thơm mùi hoadại, Nhónbước qua ngõ trước, Ngẫngtrông mãnh trờikhông, Lờlững ángmây trôi, Bắcđẩu treo ngang đầu. 365. Giòngsông trôi mãimiết, Thoángchợt ánh saosa, Trăng treo một mãnh ngang đầu, Gió lùa qua song bỏngõ, Dungnhan ngày thêm tiềutuî, 370. Chồng còn mãimiết phươngxa. Xưa như hình với bóng, Nay đôingã đôiđàng. Bạnđường cùng chàng là mây là gió, Thiếp nơi nầy vườn cũ rêu xanh. 375. Thềm hoang gióxuân nhạt nắng, Tiếc lỡlàng tuổi thanhxuân. Đanghồi xuânthì dàodạt, Là lúc Ngưulang Chứcnữ hội trăngrằm. Nàng congái xóm tây năm ấy, 380. Nay đã là người của xóm đông, Nhưng sao thỏngọc phòngkhông, Xuânxanh mấy chốc, môi hồng chóng phai. Năm từng năm thấmthoát đưa thoi, Đờingười tuổixuân trôi chóng quá. 385. Xuân buồn chưa dứt thu lại tới, Năm lại một năm buồn ít hơn vui, Hờn thu mấy độ ưusầu, Liễu xanh xanh được mấy thu? Thương mình lệ nhỏ mấy hàng, 390. Chỉ sợ như Vănquân đầubạc, Hoa tàn còn ai ngóngàng. Thantiếc để làm chi, Nhansắc dù như hoa thắmhồng, Kểlể để làm gì? 395. Quang-âm một đi không trởlại, Thương phậnbạc tiếc hoaniên. Gáixuân mấychốc thành thiếuphụ. Gáchương thơthẩn cố vui, Lầuhoa còn toảquyện mùi hươngbay. 400. Giận trời sao khéo vẽbày, Gâynên cảnh trớtrêu, Trớtrêu đành cũng chịu, Thiếp vì thiếp lại vì chàng tiếcnuối. Chàng có thấy uyên-ương cócặp, 405. Chúng nào đành nỡ xa nhau. Chàng thấy chăng đôi yến, Quyếnluyến bên nhau đến bạcđầu. Loài chim kia tuy vôtình, Sátcánh nhau trọnđời. 410. Loàisâu dù vôtri, Quấnquít nhau không rời. Liễu bên đường nối nhánh, Sen trong hồ từng cánh, Cũng có lúc tựađầu, 415. Dâyleo kia quấnquít, Mà người mãi xanhau, Sánh sao bằng loàivật kia, Sánh sao bằng đôi chim chắpcánh, Sánh sao bằng cành liễu liềncành. 420. Dù chết cũng gần nhau, Không nỡ sống chialìa. Chodầu sẽ gặp nhau trong cõichết, Sao bằng gần nhau trong kiếp này. Mong chàng chớ vội già, 425. Thiếp xin giữ mãi nét trẻtrung. Nguyện theo chàng như chiếc bóng, Đi đâu cho bóng theo cùng, Hình chàng bóng thiếp hoà chung. Mong chàng mang lòng nhiệthuyết, 430. Đem thân gìn-giữ nonsông, Đóilòng ăn đầu giặc, Khát uốngmáu quânthù. Cầutrời trong làntên mũigiáo, Luôn hộ-mạng anhhùng, 435. Vùnglên trăm trận thắng, Xuống quanđông tỉnh, Quanbắc tàn binh. Đầu non cuối bãi gát cungtên. Hạcờ giãtừ trăng quan-ải. 440. Quân về dậy khúc khảihoàn, Tên đề biađá, Công tạc cungson, Chiếncông dânghiến Thiênhoàng. Sông Ngân rữa sạch đaocung , 445. Nhấc bút đềthơ đôi vần, Nhạcphủ lừngvang lời xưngtụng, Học tiềnnhân sánhbì trídũng, Tên ghi gácngọc, tạc đài kỳlân. Đấttrời miênviễn dàycông, 450. Vinhdanh thiếp cũng được chung hươngtrời. Nỗi sầu hômnay, Vuivầy ngàymai. Thiếp không muốn làm người Tôphụ, Chàng chốn Lạcdương thoảchí namnhi, 455. Về đây lưng giắt ấnvàng, Nămxưa khungcửi chẳng ngóngàng. Nguyện vì chàng cởi chinh-y, Nguyện vì chàng nâng chénngọc, Vì chàng tóc chải hai hàng, 460. Vì chàng sonphấn điểmtrang rỡràng. Trao chàng xem nămxưa khăn lệ, Đọc chàng nghe ngàycũ tìnhthơ, Thơtình ngàycũ đổi vần, Thơ say tình mới rượu nồng thắm môi. 465. Rượu từng ly rót mời, Thơ ngâmnga thánhthót, Rượu thấm men nồng, Thơ đối từng câu, Tình thắm men say , 470. Xeduyên nối lại thángngày, Nếm hươngtình cũ ngấtngây cõingười. Côngdanh đã vẹnnợ cho đời, Còn đây nửa kiếp để yêu nhau, Hưởng thú thanhbình tàn binhlửa. 475. Lệ nhỏ đầyvơi lại đầyvơi. Sumvầy đây nhủ vài lời, Làm thân chinhphụ dõivời chinhphu.
dchph
SF 1992 |