17/8/25

Từnguyên HánTạng Sosánh

Các Hìnhthểchínhtrị NamViệt Cổ,
Và Các Cuộc Dicư TiềnTạng:
Bằngchứng Ngônngữhọc, Khảocổhọc, Và Lịchsử


Phiêndịch: Copilot
Hiệuđính: dchph


Giớithiệu


Quátrình pháttriển lịchsử của tiếngViệt hiệnđại, cùngvới vaitrò của các cộngđồng NamViệt cổ và các cuộc dicư tiềnTạng trong việc địnhhình cảnhquan ngônngữ và lịchsử tại miềnNam Trungquốc và miềnBắc Việtnam, đang trởthành một chủđề được nghiêncứu liênngành ngàycàng sâurộng.

Những tiếnbộ gầnđây trong ngônngữhọc sosánh, khảocổhọc, và dântộclịchsử đã làmsángtỏ mạnglưới tiếpxúc phứctạp, sự duytrì tầngngữ nền, và các cuộc dicư — vốnđã thúcđẩy quátrình chuyểntiếp từ các liênminh bộlạc thời Đồđá sang các vươngquốc thời Đồđồng, và saucùng là sựhộinhập vào hệthống đếquốc thời nhàHán.

Báocáo họcthuật có cấutrúc này tổnghợp các lậpluận họcthuật và mởrộng các nguồn nghiêncứu hiệnđại và trựctuyến nhằm chứngminh cho luậnđiểm tổnghợp sau:

Các từnguyên HánTạng sosánh chothấyrằng quátrình pháttriển lịchđại của tiếngViệt hiệnđại phảnánh một kịchbản lịchsử trongđó các cộngđồng NamViệt cổ đã thiếtlập các chínhthể tựtrị trảirộng khắp miềnNam Trungquốc trước khi đếquốc Hán được củngcố.

Trong một giaiđoạn xahơn, các nhóm tiềnTạng có nguồngốc từ vùng caonguyên phía TâyNam của Trungquốc cổđại đã dicư lên phíaBắc và tiếpxúc với các cộngđồng bảnđịa dọctheo vùngbiên của nướcThục (蜀國) tại khuvực Tứxuyên ngàynay; các cuộc didân của họ đã mởrộng về phía đôngbắc, dọctheo các phụlưu của Sông Dươngtử.

Các pháthiện khảocổ học từ các địađiểm biệtlập, được nhậndiện qua các tổhợp vậtliệu đặctrưng (vídụ: Sanxingdui, Jinsha), chothấy rằng các cộngđồng bảnđịa tiền-Thục tạichỗ này đã tiêuvong và khôngcòn tồntại như các thựcthể ngônngữ riêngbiệt như của những ngườididân.


Cấutrúc bàiviết


Báocáo này được tổchức theo ba tuyến bằngchứng chính — ngônngữhọc, khảocổhọc, và lịchsử — mỗi tuyến gồm các tiểumục và phần tổngkết cuối. Các pháthiện chính và giátrị chứngminh của chúng được tómtắt trong một bảng tổnghợp nhằm hướngdẫn ngườiđọc điqua mạnglưới bằngchứng đanxen nhau.

I. Bằngchứng ngônngữhọc


A. Các từnguyên HánTạng sosánh và tầngngữnền tiếngViệt


Nghiêncứu gầnđây trong ngônngữ học lịchsử đã xáclập mốiliênhệ rõràng giữa tiếngViệt và các ngônngữ ĐôngnamÁ khác, với ảnhhưởng tầngngữ nền sâurộng từ ngữhệ HánTạng và NamÁ (Austroasiatic).

Phươngpháp sosánh hiệnđại chophép các nhà ngônngữ học táicấutrúc các ngônngữ tổtiên, xácđịnh các quyluật biếnđổi âmthanh đềuđặn, từđó suyra các môhình tiếpxúc xãhội và dicư trong quákhứ.

Ngữtổ HánTạng (Proto-Sino-Tibetan, PST), tổtiên giảđịnh của cả nhánh Hán và TạngMiến, mang nétđặctrưng biểuhiện qua các đặcđiểm hìnhthái riêngbiệt của chúng được ghinhận trong tiếngViệt hiệnđại, tiếngQuảngđông, và các phươngngữ miềnNam Trungquốc khác.

Một đặcđiểm thenchốt trongsốđó là sựhiệnhữu của các âmcuối đóng và âmmũi trong tiếngViệt (vídụ: ‑p, ‑t, ‑k, ‑m, ‑n, ‑ŋ), phảnánh các đặcđiểm tươngtự trong các bản táicấutrúc của ngữtổ Tiền-HánTạng (PST). Ngoàira, tiềntố gâynghĩa *s‑ và các hậutố biếnhình được táicấutrúc cho PST cũng hiệnhữu khôngchỉ trong quátrình hìnhthành thanhđiệu của tiếngViệt và các phươngngữ miềnNam Trungquốc, mà còn trong quátrình vaymượn và thíchnghi từvựng Trungquốc vào tiếngViệt — đặcbiệt trong các lĩnhvực khó bị thaythế như sốđếm cơbản và từvựng sinhhoạt giađình.

Sốđếm tiếngViệt, chẳnghạn, thểhiện rõ sựduytrì nổibật của các hìnhthức bảnđịa thuộc ngữhệ NamÁ, phânbiệt tiếngViệt với các ngônngữ ĐôngnamÁ lụcđịa khác — vốn thường thaythế sốđếm bảnđịa bằng các hìnhthức vaymượn từHán (đặcbiệt là Thái và Khmer). Theo Mark Alves, điều này cho thấy một tầngngữ nền mạnhmẽ và gợiý rằng ngay cả sau nhiều thếkỷ tiếpxúc với hệthống hànhchính nhàHán và quátrình vaymượn từvựng quymô lớn, lớp từvựng lõi của tiếngViệt vẫn khángcự lại sựthaythế cóhệthống từHán.

NgônngữMứcđộ thaythế
bằng từHán (2–99%)
Ngữcảnh duytrì

Thái/KamSui
    
    Gầnnhư toànbộ
    
    Sửdụng rộngrãi từHán
Khmer    Thaythế trong sốthậpphân    Qua trunggian Thái
Nhật    Hệthống kép (bảnđịa + Hán)    Phânđoạn theo trườngnghĩa
Việt    Chủyếu bảnđịa    Duytrì làm hệsốđếm mặcđịnh

Bảng này được theosau bởi một phântích chitiết về cách mà sựphổbiến của sốđếm bảnđịa trong tiếngViệt, cùng với việctiếpnhận cóhệthống các loại từloại Hán như loạitừ và từghép, đã tạonên một môhình tiếpxúc ngônngữ mạnhmẽ nhưng không pháhuỷ: tiếngViệt vẫn giữđược bảnsắc bảnđịa thôngqua việc duytrì các yếutố ngữpháp và từvựng lõi, ngaycả khi đã tiếpthu hàng nghìn hìnhvị Hán vào các trườngnghĩa rộnghơn.

B. Các đặcđiểm tầngngữnền trong tiếngViệt và tiếngQuảngĐông


Quátrình hìnhthành thanhđiệu trong tiếngViệt cungcấp bằngchứng ngữâmhọc mạnhmẽ về tiếpxúc tầngngữnền–tầngngữ nổi cườngđộ cao. Giảthuyết tổngthể về sự hìnhthành thanhđiệu (tonogenesis), lầnđầu được Haudricourt đềxuất, chorằng các thanh hiệnđại của tiếngViệt (sắc, nặng, hỏi, ngã, ngang, huyền) phảnánh cóhệthống sự mấtđi hoặc biếnđổi của các phụâmcuối (đặcbiệt là *‑s, *‑h, *‑ʔ) trong ngữtổ Việt và tiếngHán cổ. Quátrình này liênquan đến sự pháttriển đốilập giữa các âmcuối “căng” và “lỏng”, một đặcđiểm rõràng bị ảnhhưởng bởi tìnhtrạng songngữ kéodài và áplực Hán trong thờikỳ đôhộ nhàHán: 

Đặcđiểm nguồn
(ngữtổ Việt)
Thanhđiệu tiếngViệtTầngngữnền sảnsinh

Phụâmngạc cổ họng ‑ʔ
  
       
sắc/nặng
    
    âmcuối bị ngắng của ngữhệ
    NamÁ
Phụâmxát ‑s/‑h        hỏi/ngã    thanhkhứ trong tiếngHán cổ
Âmcuối mũi/lưỡi        sắc/nặng vs
        ngang/huyền
    độcăng do tầng ngữâm thờiHán

Trong tiếngQuảngđông, các đặcđiểm tầngngữ nền cũng được ghinhận, đặcbiệt là việc bảotồn các phụâmcuối và duytrì các loại thanhđiệu nhấtđịnh — vốn đãbị mất hoặc gộplại trong các phươngngữ Hán khác. Sựhiệnhữu của các đặcđiểm “Thái” và NamÁ trong "tiếngYue" khẩungữ (Quảngđông) đã được ghinhận rộngrãi; vídụ như các từghép có thànhtố đứngsau, các dấuvết hìnhthái của ngônngữ nền, và sựtồntại của trậttự từ cổxưa khácbiệt với các tổhợp phươngngữ Hán phươngBắc.

Trậttự cụmtừ đặctrưng của các "phươngngữ Yue", thường phùhợp với cấutrúc của các ngônngữ Tai-Kadai (bổngữ đứng sau danhtừ), củngcố quanđiểm về tiếpxúc ngônngữ sâurộng giữa các cộngđồng Yue miềnNam tiền-Hán, Tai, và các nhóm bảnđịa. Hơn nữa, việc bảotồn đầyđủ tám loại thanh của tiếngHán trungđại trong "tiếngYue"/QuảngĐông và duytrì các phânbiệt âmcuối phứctạp (‑m, ‑n, ‑ŋ, ‑p, ‑t, ‑k) đượcxemlà một chỉdấu thenchốt của các đặcđiểm bảothủ vùngmiền, cóthể quycho tiếpxúc cổđại và sự duytrì tầngngữ nền trướckhi bị Hánhoá hoàntoàn.

C. Sosánh và táicấutrúc lịchsử


Quátrình pháttriển của tiếngHán và tiếngViệt như hai hệthống songhành nhưng khôngthể hiểu lẫnnhau là một trườnghợp điểnhình về sựduytrì tầngngữnền và sự chiếmưu tầngngữ nổi. Các từvay Hán sớm có thanhngang và thanhhuyền tươngứng — phảnánh thanh “bình” (bìnhthanh) trong tiếngHán Trungđại — giúp địnhthời tiếpxúc Hán-Việt vào cuối thiênniênkỷ thứnhất TCN, tức thờikỳ nhàHán và sauđó.

Ngoàira, các đổimới cấutrúc daidẳng như việcchuyển các từ chỉ sốlượng từ vịtrí sau danhtừ lên trước danhtừ cho thấy ảnhhưởng Hán có mứcđộ vừaphải nhưng có mụctiêu rõràng, hoạtđộng trong một khung tiếngViệt vốnđã vữngchắc.

TiếngHán Annam sớm (thựcchất là tiếngHán tiền-Trungđại nói tại miềnBắc Việtnam và miềnNam Trungquốc) được giảđịnh đã đóngvaitrò trunggian quantrọng trong quátrình pháttriển từvựng và chínhtả Hán-Việt theo thờiđại, phânbiệt cách vaymượn của tiếngViệt với các hệthống cứngnhắc dựatrên cáchđọc như ở Nhật hoặc Hàn. Điều này củngcố môhình lịchsử về một cộngđồng nói tiếngHán pháttriển mạnhmẽ, cùng tồntại và hoànhập với các cộngđồng bảnđịa Việt tại vùng Châuthổ SôngHồng trước các nỗlực Hánhoá thời nhàĐường hoặc nhàMinh.

II. Bằngchứng khảocổhọc


A. Các tổhợp vậtliệu đặctrưng tại Sanxingdui và Jinsha


Các dấuấn khảocổ học được pháthiện tại Sanxingdui và Jinsha (Tứxuyên) thểhiện sựxuấthiện, độphứctạp, và sựbiếnmất saucùng của các hìnhthểchínhtrị vùngcao có bảnsắc dânngữ riêng biệt trướckhi bị hộinhập hoàntoàn vào hệthống nhàHán. Dichỉ Sanxingdui, rộng khoảng 12 km², là trungtâm của một vươngquốc thời Đồđồng hùngmạnh, thường được đồngnhất với chínhthể cổ Thục. Việc pháthiện các hiệnvật bằng đồng lớn (mặtnạ có mắt lồi, tượng người đứng, cây nghilễ phứctạp), đồ vàng, ngọc, và ngàvoi — phầnlớn bị đậpvỡ có chủđích và được chôn theo tầnglớp — nhấnmạnh tính tựchủ nghilễ và chínhtrị của vùng này.

Về mặt chiếnlược, vănhoá vậtthể của Sanxingdui và Jinsha khácbiệt rõrệt với các nềnvănminh đươngthời tại vùng Trungnguyên như nhàThương. Việc không có vănbản, hànhvi pháhuỷ nghilễ các hiệnvật, và các quyước nghệthuật độcđáo đều gợiý một thếgiớiquan và tổchức xãhộichínhtrị khácbiệt với môhình nhàHán. Các đặcđiểm này, kếthợp với kỹthuật luyệnkim tiêntiến và quyhoạch đôthị quymô lớn, cho thấy mạnglưới các chínhthể cạnhtranh, tổchức cao, có liênkết nhiềuhơn với các cộngđồng phía Tâynam và Đôngnam Trungquốc hơnlà với các thếlực phươngBắc.

Phântích địnhniên bằng carbon phóngxạ đốivới tườngthành và tầngđất tại Sanxingdui xácđịnh thờikỳ hưngthịnh vào khoảng 2200–1200 TCN, với sựchuyểndịch độtngột về địnhcư và nghilễ sang Jinsha vào khoảng 1200 TCN. Sựbiếnmất sauđó của các nềnvănhoá này cóthể liênquan đến các thảmhoạ địachất, được chứngminh qua các dấuvết hoálỏng do độngđất và các tầng trầmtích bấtthường (như lớp cát sôi, mặtbằng sinhhoạt bị đứtgãy tại Jinsha).

B. Tươngtác liênchínhthể và môhình địnhcư


Cảnhquan khảocổ học tại Tâynam Trungquốc — bao gồm vùng châubằng Dian của Vânnam — thểhiện môhình tươngtác giữa các chínhthể nganghàng, được chứngminh qua các nghĩađịa giàu trốngđồng, nhàsàn được môtả trên đồ tuỳtáng, và các bệcộngđồng liênquan đến nghilễ yếntiệc. Các dấuấn này songhành với các xãhội phân tầng và chútrọng nghilễ như Sanxingdui và Jinsha, và quantrọng hơn, chúng mởrộng vào các truyềnthống ngônngữ-vănhoá của các cộngđồng hậuduệ Yue tại miềnNam Trungquốc và miềnBắc Việtnam.

Nghiêncứu liênngành đã chỉra rằng các truyềnthống tanglễ (như gò vỏsò, trốngđồng, trangtrí bằng vỏsò) của Dian và các nềnvănhoá lâncận phùhợp với môhình truyềnđạt địavị và quanhệ huyếtthống thôngqua nghilễ tanglễ — một hệthống có trước sựcủngcố của đếquốc Hán và cóthể đã kếttinh cùngvới sự hìnhthành bảnsắc "Yue" miềnNam.

Đángchúý, các môhình địnhcư được ghinhận tại các dichỉ như Dadiwan, Boxi, và Haxiu cho thấy cấutrúc hướngtâm với các côngtrình côngcộng và quảngtrường lớn, có tươngđồng với các cộngđồng TạngMiến hiệnđại như người Gyalrong, nơi mà việc uốngrượu cộngđồng và múa nghilễ vẫn duytrì kýức tổtiên.

Bằngchứng từ các ngữcảnh này chothấyrõ rằng các cộngđồng tiềnTạng và các nhóm Neolithic phíaTây đã dicư vào, và đôikhi hoànhập với, các cộngđồng bảnđịa hiệnhữu — đặcbiệt dọc theo các hệthống sông Mân, Đạiđộ, và Jinsha — tức “hànhlang Tạng-Di”, vốn đóngvaitrò như các trụcgiaothông cho sự phânbố dâncư, chuyểngiao côngnghệ, và tiếpxúc nghilễ từ thời Đồđá Mới đến thời Đồđồng.

C. Côngnghệ vậtliệu và nghilễ chuyênthống


Gốmnung nhiệtcao có vẽ màu, hợpkim luyệnkim (đồng–thiếc–chì), và các kỹthuật xâydựng đặctrưng được tìmthấy tại Sanxingdui và các chínhthể vùngcao khác thểhiện sự liêntục kỹthuật với các nềnvănhoá Neolithic như Yangshao và Majiayao. Các phântích khoángvậthọc gầnđây đã xáclập các liênkết trựctiếp — từ chuỗi côngđoạn chếtạo đến thànhphần sơn — giữa Yangshao, Majiayao, và các chínhthể vùngcao sau này, củngcố một trục chuyểngiao kỹthuật Bắc-Nam (và Tâynam-Bắc) phùhợp với các giảthuyết về dicư ngônngữ.

Phântích vi hoáthạch từ các bình amphora tại các dichỉ Yangshao cho thấy có dưlượng của biakê và biagạo, các tácnhân lênmen Monascus, và các vếtxước trên thànhbình liênquan đến việc uống bằng ống dùngchung. Các pháthiện này không chỉ củngcố luậnđiểm rằng yếntiệc nghilễ là một thựctiễn xãhội thốngnhất giữa các nhóm tiền Hán-Tạng và các nhóm ngoạivi, mà còn cungcấp một liênkết khảocổ học bềnvững với tầng từvựng nền về đồ uống cócồn, ngũcốc, và nghilễ — vốnđược duytrì trong các ngônngữ hậuduệ.

III. Bằngchứng lịchsử


A. Các chínhthể tựtrị NamViệt thờikỳ đầu


Các nguồn tưliệu vănbản, khảocổ học, và dânngữ học kếthợp lại để pháchoạ một bứctranh sốngđộng về vùngbiên phíaNam của Trungquốc như một mạnglưới các chínhthể nhỏ, đadạng về dân tộc và ngônngữ, được gọichung trong tưliệu cổ là “BáchViệt” (百越). Phạmvi địa–dântộc của nhãn “Việt” trảidài từ miềnBắc Việtnam qua Quảngtây, Quảngđông, đến Phúckiến và Chiếtgiang, baogồm các cộngđồng thuộc các ngữhệ khácnhau: NamÁ, Tai–Kadai, tiềnHán, và H'Mông–Miên.

Vươngquốc NamViệt dưới thời Triệu Đà là điểnhình của sựtựtrị miềnNam thờikỳ đầu, với việc xưngvương và hoạtđộng gần như độclập với quyềnlực đếquốc Hán trong gần một thếkỷ sau khi nhàTần sụpđổ, cho đến khi bị chinhphục vào năm 111 TCN. Bộmáy hànhchính và quânđội NamViệt kếthợp cả người bảnđịa Việt và dân dicư Hán, còn nghilễ triềuđình là sựphatrộn giữa hìnhthức bảnđịa và dunhập. Các hiệnvật khảocổhọc như đỉnhbachân kiểu Việt, chuông móc, và hiếntếngười trong mộ vua chothấy sựduytrì lâudài của các thựctế bảnđịa.

Mặcdù có nhiềulần bị canthiệp hànhchính từ phía Hán, bằngchứng rõràng về tổchức xãhội, tính tựtrị, và thậmchí khángcự của người Việt xuấthiện trong cả tưliệu vănbản và hiệnvật. Các sựkiện như cuộc khởinghĩa chống Hán của Lữ Gia hay việc duytrì các dòngdõi quýtộc Việt trong triều NamViệt cho thấy một bứctranh đatầng của quyềnlực tinhhoa và quầnchúng trong việc địnhhình tiếntrình lịchsử của vùng này.

B. Các môhình dicư tiềnTạng và vùngbiên Thục


Các tranhluận lâuđời về nguồngốc và lộtrình dicư của các nhóm nói ngữHán-Tạng ngàycàng được làmsángtỏ thôngqua sựtổnghợp giữa khảocổhọc, ngônngữhọc lịchsử, và ditruyềnhọc. Đồngthuận hiệnnay đặt quêhương gốc của người nói ngữtổ Hán-Tạng tại thượngnguồn Sông Hoànghà và các vùngcao lâncận thuộc Camtúc, Thanhhải, và Tứxuyên, với các đợt mởrộng của vănhoá Yangshao và Majiayao về phía Tây và Tâynam đến rìa châubằng Tứxuyên, rồi thâmnhập vào vùngbiên của nướcThục (蜀國).

Các chínhthể như Thục pháttriển trong điềukiện tươngđối biệtlập, hìnhthành các nềnvănhoá vậtthể riêngbiệt như tại Sanxingdui và Jinsha, đồngthời vẫngiữ tiếpxúc với các thếlực Thương và Chu ở phíaĐông. Các cuộc chinhphục sauđó của Tần và Hán đã sátnhập Thục và các cộngđồng BáchViệt vùngbiên vào các triềuđại Trunghoa kếtiếp, tuynhiên các hìnhthức lãnhđạo bảnđịa, quyềnlực theo huyếtthống, và nghilễ vẫn tiếptục tồn tại — thểhiện qua kiếntrúc mộ và truyềnthống khẩungữ.

“Hànhlang Tạng-Di” đóngvaitrò như một trục dicư chính đivề phíaBắc và phíaĐông của các nhóm tiềnTạng liênquan, khôngchỉ thúcđẩy sự phânbố dâncư màcòn chuyểngiao côngnghệ, nghilễ, và ngônngữ giữa các chínhthể vùngcao và mạnglưới các xãhội Yue đang hìnhthành dọc theo Sông Dươngtử và các phụlưu. Dữliệu dânngữ học xácnhận rằng các ngônngữ Hán–Tạng hiệnđại trong vùng vẫn giữ các dưâm và nghilễ có nguồngốc từ các mốiliênhệ tổtiên này — đặcbiệt trong nôngnghiệp ngũcốc, kỹthuật lênmen, và nghilễ uốngrượu.

C. Sự tiêuvong và hộinhập của các cộngđồng tựtrị


Các nghiêncứu khảocổ học, ditruyềnhọc, và dânngữhọc gầnđây đã ghinhận cả sựtiêuvong (do chinhphục, thảmhoạ, và hộinhập) lẫn disản cònlại của các cộngđồng vùngcao cổđại. Việcpháhuỷ có chủđích và chôngiấu các hiệnvật nghilễ tại Sanxingdui, cùng với sựgiánđoạn độtngột được địnhniên bằng carbon trong các tầng sinhhoạt, chothấy khôngchỉcó thảmhoạ môitrường (cóthể là độngđất gâylũ và hoálỏngđất) mà còn khảnăng mấtđi của một cộngđồng vănhoá–ngônngữ đặctrưng — chỉ được thaythế mộtphần bởi vănhoá Jinsha muộn trướckhi bị hộinhập hoàntoàn vào hệthống Hán.

Tươngtự, các gò mộ phân tầng, trống nghilễ, và hiệnvật đồng tinhxảo của Dian, Mimo, và các hìnhthểchínhtrị lâncận đã biếnmất khi hànhchính đếquốc Hán và các đợt táiđịnhcư tiếnvào Tâynam TrungQuốc và miềnBắc Việtnam. Tuynhiên, các quátrình này không xoábỏ hoàntoàn dấuvết: thôngqua việc truydấu các yếutố tầngngữ nền về ngữâm, từvựng, và nghilễ (như trong tiếngViệt và tiếngQuảngĐông), các nghiêncứu hiệnnay đang táicấutrúc các đườngnét của các chínhthể và cộngđồng đã mất.

IV. Tổnghợp và tómtắt phântích


Sựkếtnối giữa ngônngữhọc sosánh, khảocổhọc, và tưliệu dântộc lịchsử đã cungcấp bằngchứng ápđảo cho giảthuyết rằng tiếngViệt hiệnđại và các cộngđồng hậuduệ "Yue" đã hìnhthành trong một cảnhquan phứctạp, phântầng của các chínhthể tựtrị miềnNam. Các nhóm này duytrì nghilễ riêng, tổhợp vậtliệu riêng, và hìnhthức ngônngữ riêng — khôngchỉ trước màcả sau khi bị nhàHán chinhphục — với các đặcđiểm tầngngữ nền vẫn tiếptục tồn tại trong ngữâm, từvựng, và nghilễ suốt các giaiđoạn pháttriển saunày trong khuvực.

Đồngthời, các dấuấn khảocổhọc, di truyềnhọc, và từvựnghọc của các nhóm tiềnTạng và liênquan cóthể được truydấu qua Tâynam TrungQuốc, dọctheo các phụlưu và hànhlang núi của thượngnguồn Sông Dươngtử. Việc họ hoànhập hoặc thaythế các xãhội bảnđịa quanh vùngbiên của nướcThục, cùng với vaitrò của họ trongviệc chuyểngiao ngônngữ và truyềnthống kỹthuật, nay đãđược xáclập qua nhiềutuyến bằngchứng độclập.


V. Các pháthiện chính và bảng tómtắt


Tuyến bằngchứng

Pháthiện chính

Giátrị đối với luậnđiểm nghiêncứu

Ngônngữ học:
Sốđếm & thanhđiệu
TiếngViệt duytrì sốđếm NamÁ; các loại thanh hìnhthành từ tiếpxúc với ngữâm Háncổ / tiềnTạngChứngminh sự duytrì tầngngữ nềndưới tầngngữ nổi Hán, củngcố môhình tựtrị "Yue"
Ngônngữ học: QuảngĐông & "Yue""Phươngngữ Yue" bảotồn thanhđiệu cổ, âmcuối, và trậttự cúpháp theolối “Thái”Xácnhận tầngngữnền từ các cộngđồng tiềnHán
Khảocổ học: Sanxingdui & JinshaĐồng nghilễ đặctrưng, hố nghilễ phântầng, sựbiếnmất độtngột tại điểm địachấnChỉra trungtâm của các cộngđồng vùngcao đã tiêuvong, từng tựtrị trước Hán và có tiếpxúc tiềnTạng
Khảocổ học: Truyềnthống kimkhí & đồgốmGốmnung nhiệtcao có vẽ màu, liêntục chuỗi côngđoạn từ Yangshao đến Majiayao và các hìnhthểchínhtrị TâynamBằngchứng về chuyểngiao kỹthuật và dâncư qua dicư và tiếpxúc
Lịchsử:
Các hìnhthểchínhtrị NamViệt
NamViệt, MânViệt, và các chínhthể nganghàng duytrì tựtrị chínhtrị, bảnđịa tính, và nghilễ riêng trước thờiHánCủngcố môhình các xãhội miềnNam độclập với bảnsắc bềnvững
Lịchsử:
Dicư tiềnTạng
Vùngcao TâyNam TrungQuốc là quêhương; lộtrình dicư được ghinhận dọcsông vào các nước vùngbiên (gồm nướcThục)Khẳngđịnh hướng và trungtâm của sự phânbố ngônngữ và dâncư
Lịchsử:
Tiêuvong & hộinhập
Độngđất thảmhoạ, chinhphục, và hộinhập dẫn đến sựbiếnmất của các chínhthể nhưng đểlại ảnhhưởng tầngngữnền sâusắcGiảithích sựtiêuvong của cộngđồng và sựtiếptục của di sản ngônngữ–nghilễ trong các cộngđồng hậuduệ Việt và Yue
Ditruyềnhọc / Nhândạnghọc: Mởrộng YangshaoMôhình phânbố dâncư từ Yangshao đến caonguyên TâyTạng; tính đồngnhất ditruyền phùhợp với dữliệu ngônngữ và khảocổ họcChứngminh sựthốngnhất về ditruyền, ngônngữ, và vănhoá trong quátrình mởrộng tiềnHán-Tạng


Kếtluận


Tổnghợp các bằngchứng ngônngữhọc, khảocổhọc, và lịchsử đã vẽnên một bứctranh thuyếtphục về quákhứ cổđại của miềnNam TrungQuốc: một cảnhquan của các dòngdicư, các xãhội tựtrị bềnbỉ, và các tầng ngônngữ phânlớp. Các đặcđiểm tầngngữ nền trong tiếngViệt và tiếngQuảngĐông — bắtnguồn từ các chínhthể "Yue" và tiềnHán — là những vangvọng sốngđộng của các xãhội đã được địnhhình bởi các cuộc dicư tiềnTạng và sựhưngsuy của các vươngquốc vùngcao thời Đồđồng như Thục, Sanxingdui, và Jinsha. Sựtiêuvong của các nềnvănhoá này, dù do thảmhoạ, chinhphục, hay hộinhập dần, lại chínhlà điều đã đảmbảo sựtồntại của chúng dưới dạng tầngngữnền, ghidấu khôngthểxoánhòa trong các ngônngữ và bảnsắc dântộc vềsau. Tổnghợp liênngành này, dựatrên bằngchứng cụthể, đã củngcố vữngchắc cho môhình lịchsử–ngônngữ được đềxuất, và tạo nềnmóng cho các nghiêncứu tươnglai tại giaođiểm giữa ngônngữhọc lịchsử, khảocổhọc, và dântộclịchsử.

######
Phiêndịch: Copilot
Hiệuđính: dchph

SF 8/16/25

Comparative Sino-Tibetan Etymologies


Comparative Sino-Tibetan Etymologies,
Early Southern Yue Polities,
and Proto-Tibetan Migrations: 
Linguistic, Archaeological, and Historical Evidence

Copilot by : dchph



Introduction


The diachronic development of modern Vietnamese and the role of Southern Yue populations and Proto-Tibetan migrations in shaping the linguistic and historical landscape of southern China and northern Vietnam is a subject of growing interdisciplinary scrutiny. Recent advances in comparative linguistics, archaeology, and ethnohistory have illuminated the intricate webs of contact, substratal retention, and population movement that underpinned the transition from Neolithic chiefdoms to Bronze Age kingdoms and, ultimately, to imperial integration during the Han era (1). This structured academic report synthesizes scholarly arguments and a robust spectrum of web-based and contemporary research to substantiate the following composite claim:   
Comparative Sino-Tibetan etymologies suggest that the diachronic development of modern Vietnamese parallels a historical scenario in which early Southern Yue populations established autonomous polities across China South prior to Han imperial consolidation.

In a more remote period, Proto-Tibetan groups, originating in the southwestern highlands of ancient China, migrated northward and interacted with indigenous communities along the periphery of the Shu polity (蜀國) in present-day Sichuan; their movements extended toward the northeastern tributaries of the Yangtze River.

Archaeological findings from isolated sites, marked by distinctive material assemblages (e.g., Sanxingdui, Jinsha), indicate that these populations have since become extinct.

This report is organized under three primary lines of evidence-linguistic, archaeological, and historical-each with sub-sections and a concluding synthesis. Key findings and their substantiative relevance are summarized in a comprehensive table to guide the reader through the intertwined web of evidence.

I. Linguistic Evidence

A. Comparative Sino-Tibetan Etymologies and Vietnamese Substratum


Recent research in historical linguistics has unequivocally linked Vietnamese and other Southeast Asian languages to profound Sino-Tibetan and Austroasiatic substratal influences (2)(3)(4). The comparative method, as applied in contemporary work, allows linguists to reconstruct proto-languages, identify regular sound correspondences, and thereby infer patterns of past social interaction and migration (4). Proto-Sino-Tibetan (PST), the reconstructed ancestor of both Sinitic and Tibeto-Burman branches, is characterized by a series of distinctive morphological features whose reflexes are attested in modern Vietnamese, Cantonese, and other southern Chinese dialects.

Crucial among these is the presence of final stops and nasals in Vietnamese (e.g., -p, -t, -k, -m, -n, -ŋ), which mirror similar features in PST reconstructions (3)(5). Furthermore, the causative *s- prefix and various inflectional suffixes reconstructed for PST are visible not only in the tonal development of Vietnamese and southern Chinese dialects but also in the extensive borrowing and adaptation of Chinese lexicon into Vietnamese, especially in domains resistant to replacement, such as basic numerals and household vocabulary (6)(2).

Vietnamese numerals, for instance, exemplify conspicuous retention of native Austroasiatic forms, distinguishing Vietnamese from other mainland Southeast Asian languages, which have frequently replaced indigenous numerals with Sino-derived forms (notably Tai and Khmer) (7). This, according to Mark Alves, signals a robust underlying substrate and suggests that even after centuries of intercourse with Han administrative systems and large-scale vocabulary borrowing, the core lexicon of Vietnamese resisted systematic Sinitic replacement:

Language     How much replaced with Chinese 
(2–99%)
Retention Context
Tai/Kam-Sui     Almost all     Widespread use of Chinese terms
Khmer     Replaced for decimals     Through Tai mediation
Japanese     Dual systems (native + Chinese)     Segmented by semantic range
Vietnamese     Largely native     Retained as default numerals

This table is followed by a detailed analysis of how the prevalence of native numerals in Vietnamese, alongside the systematic adoption of Chinese classifiers and calques, demonstrates a scenario of intense but non-destructive language contact: Vietnamese maintained local identity through core grammatical and lexical maintenance, even as it absorbed thousands of Sinitic morphemes into wider semantic fields (8).


B. Substratal Features in Vietnamese and Cantonese


Tonal development in Vietnamese provides robust phonological evidence for intense substratum-superstratum contact (9)(5). The grand hypothesis of tonogenesis, first articulated by Haudricourt, holds that the modern Vietnamese tones (sắc, nặng, hỏi, ngã, ngang, huyền) map systematically onto the historical loss or transformation of final consonants (especially *-s, *-h, *-ʔ) in Proto-Vietic and Old Chinese. This process involved the evolution of a contrast between "tense" and "lax" syllable codas, a trait demonstrably impacted by sustained bilingualism and Sinitic pressure during Han rule (5):


Source Feature
(Proto-Vietic)

    Vietnamese Tone Produced Underlying Substrate
Final glottal stop -ʔ     sắc/nặng     Austroasiatic glottalized coda
Final fricative -s/-h     hỏi/ngã     Chinese departing tone (qusheng)
Nasal/lateral codas     sắc/nặng vs ngang/huyền     Tenseness from Han-era phonological layering

In Cantonese, substratal features are also observed, notably in the preservation of final stops and the retention of certain tone categories, both of which have been lost or merged in other Sinitic varieties. The presence of "Tai" and Austroasiatic features in colloquial Yue (Cantonese) has been widely observed; e.g., head-final compounds, morphological traces of substrate languages (10)(2).

Yue dialects’ distinctive phrasal order, often matching the structure found in Tai-Kadai languages (modifier following noun), supports the view of extensive linguistic interaction between pre-Sinitic Southern Yue, Tai, and indigenous groups. Moreover, the preservation of all eight Middle Chinese tone categories in Yue/Cantonese and the maintenance of complex codal distinctions (e.g., -m, -n, -ŋ, -p, -t, -k) is identified as a key marker of regional conservative features, which can be attributed to ancient contact and substratal retention prior to full Hanization (10).


C. Comparative and Historical Reconstruction


The development of Chinese and Vietnamese as mutually unintelligible yet parallel systems serves as a case study in both substratal persistence and superstratal dominance. Early Sinitic loans with corresponding ngang and huyền tones, which reflect the "level" tone in Middle Chinese, anchor dating of Sinitic-Vietnamese interaction to the late first millennium BCE-the Han era and after. (5)(1)(1). Further, persistent structural innovations, such as the movement of quantifiers from post- to pre-nominal position, reveal a moderate but targeted Sinitic influence operating within an otherwise robust Vietic framework (5).

Early Annamese Chinese (essentially spoken Middle Chinese localized in northern Vietnam and southern China) is posited to have played an important mediating role in the diachronic evolution of Sino-Vietnamese vocabulary and orthographies, distinguishing Vietnamese modes of borrowing from the more rigid, reading-based systems seen in Japan or Korea6. This reinforces the historical model of a thriving Sinitic-speaking population coexisting and intermingling with indigenous Vietic communities in and around the Red River Delta prior to Yuan- or Ming-dynasty Sinification efforts (5).

II. Archaeological Evidence

A. Unique Material Assemblages from Sanxingdui and Jinsha


The archaeological signatures uncovered at Sanxingdui and Jinsha (Sichuan) encapsulate the emergence, complexity, and eventual disappearance of ethnolinguistically distinctive highland polities before full Han incorporation (1)(2)(1)(3). The Sanxingdui site, spanning ∼12 square kilometers, was the locus of a powerful Bronze Age kingdom often identified with the ancient Shu polity. The discovery of large bronzes (e.g., masks with protruding eyes, upright human figures, intricate trees), gold ornaments, jades, and elephant tusks-most of which were ritually broken and deposited in stratified layers-emphasizes the region’s ritual and political autonomy.

Strategically, the material culture of Sanxingdui and Jinsha diverges sharply from contemporary Shang and Central Plains civilizations. The lack of written records, the marked ceremonial destruction of objects, and idiosyncratic artistic conventions all suggest a worldview and sociopolitical organization distinct from Han models. These distinctive features, coupled with advanced metallurgy and large-scale urban planning, indicate a network of competitive, highly organized polities connected more to southwestern and southeastern populations than to northern hegemonies (14)(13).

Radiocarbon dating of Sanxingdui’s city wall and pit stratigraphy places its floruit between ca. 2200-1200 BCE, with the abrupt shift of settlement and ritual focus to Jinsha around 1200 BCE. The subsequent disappearance of these cultures has been plausibly linked with catastrophic seismic events as substantiated by widespread earthquake-induced liquefaction features and sedimentation records (i.e., boiled sand layers, faulted habitation levels at Jinsha) (14).

B. Peer Polity Interactions and Settlement Patterns

The archaeological landscape of southwestern China-including Yunnan’s Dian basin-presents a tableau of peer-polity interaction, as evidenced by cemeteries rich in bronze drums, pile-dwellings depicted on burial goods, and communal platforms associated with ritual feasting sessions (1)(5). These markers parallel the stratified, ritual-focused societies of Sanxingdui and Jinsha and, importantly, extend into the linguistic and cultural traditions of Yue-descended populations in southern China and northern Vietnam.

Interdisciplinary research has shown that the funerary traditions (e.g., elaborate shell mounds, bronze kettledrums, cowrie ornamentation) of Dian and adjacent cultures are consistent with the transmission of elite status and kinship through ritualized mortuary display, a system predating Han imperial consolidation and likely coalescing with the formation of Southern Yue identity (15).

Notably, the settlement patterns documented at sites such as Dadiwan, Boxi, and Haxiu indicate centripetal layouts with large public buildings and plazas, recalled in ethnographic parallels with present-day Sino-Tibetan populations such as the Gyalrong Tibetans, among whom communal drinking and ritual dancing maintain ancestral memory (11).

Evidence from these contexts strongly suggests that Proto-Tibetan and related Neolithic western populations migrated into, and sometimes merged with, prevailing local groups, particularly along the Min, Dadu, and Jinsha river systems-the so-called Tibetan-Yi corridor-which functioned as highways for population dispersal, technological transmission, and ritual exchange from the late Neolithic through the Bronze Age (16)(17).

C. Material Technologies and Ritual Specialization


High-fired painted ceramics, metallurgical alloys (copper-tin-lead), and distinct construction techniques found at Sanxingdui and other highland polities manifest technological continuity with Neolithic Yangshao and Majiayao cultures. Recent mineralogical analyses establish direct links-chaines opératoires and paint compositional similarities-between Yangshao, Majiayao, and subsequent highland polities, affirming a north-south (and southwest-north) technological transmission arc that aligns with linguistic migration theories (18)(19).

Microfossil analysis of amphorae from Yangshao sites reveals residues of millet and rice beer, Monascus fermentation agents, and the physical striations associated with communal straw drinking. These findings not only reinforce the argument for ritual feasting as a unifying social practice among Proto-Sino-Tibetan and peripheral groups, but also provide a durable archaeological link to the substratal lexicon for alcoholic beverages, grains, and ritual paraphernalia preserved in descendant languages (18).


III. Historical Evidence

A. Early Southern Yue Autonomous Polities


Textual, archaeological, and ethnolinguistic sources combine to paint a living portrait of China’s southern frontier as a network of ethnically diverse, small-scale polities, collectively referred to in historical sources as the "Hundred Yue" or Baiyue (百越) (20)(21)(22). The geo-ethnic distribution of "Yue" as a label ranged from northern Vietnam, through Guangxi and Guangdong, to Fujian and Zhejiang, encompassing communities with various linguistic affiliations (Austroasiatic, Tai-Kadai, early Sinitic, and Hmong-Mien).

The kingdom of Nanyue (Nam Việt) under Zhao Tuo (Triệu Đà) is emblematic of early southern autonomy, having asserted sovereign titles and operated with considerable independence from Han imperial authority for nearly a century after the fall of the Qin, until final conquest in 111 BCE (22)(20). The administration and military of Nanyue incorporated both native Yue and Han settlers, and court ritual was an amalgamation of local and imported forms. Archaeological finds, such as "Yue-style" ding tripods, gou-diao bells, and mortuary human sacrifices at royal tombs, highlight the enduring persistence of indigenous practices (23).

Despite repeated attempts at Han administrative encroachment, substantial evidence of Yue social organization, autonomy, and even resistance emerges from both written accounts and material relics. Key moments, such as Lü Jia’s anti-Han rebellion or the maintenance of Yue aristocratic lineages in the Nanyue court, point to a mosaic of elite and popular agency in shaping the region’s historical trajectory (21)(24).

B. Proto-Tibetan Migration Patterns and the Shu Periphery


Longstanding debates about the origins and migratory paths of Sino-Tibetan-speaking groups are increasingly being resolved via a synthesis of archaeology, historical linguistics, and genetics. The consensus places the original homeland of Proto-Sino-Tibetan speakers in the upper reach of the Yellow River and adjacent highlands of Gansu, Qinghai, and Sichuan, with expansions of the Yangshao and Majiayao cultures westward and southwestward toward the margins of the Sichuan Basin and eventual penetration into the peripheries of the Shu polity (蜀國) (19).

Polities such as Shu evolved in relative isolation, developing distinct material cultures as seen at Sanxingdui and Jinsha, while maintaining contacts with Shang and Zhou powers to the east. The subsequent Qin and Han conquests forcibly incorporated Shu and peripheral Baiyue communities into successive Chinese states, yet local forms of leadership, kin-based authority, and ritual continued to operate, evident in both mortuary architecture and oral tradition (25).

The "Tibetan-Yi corridor" served as a key corridor for northward and eastward movements of Proto-Tibetan and related populations, facilitating not just demographic but also technological, ritual, and linguistic exchange between highland polities and the emerging patchwork of Yue societies along the Yangtze and its tributaries (17). Referenced ethnohistorical data confirm that modern Sino-Tibetan languages in the region retain deep lexical and ritual echoes of these ancestral ties, especially in grain agriculture, fermentation practices, and ritual drinking ceremonies.


C. Extinction and Assimilation of Autonomous Populations



Recent archaeological, genetic, and ethnohistorical studies document both the extinction (through conquest, disaster, and assimilation) and persisting legacy of these ancient highland populations. The deliberate destruction and burial of ritual objects at Sanxingdui and the sudden radiocarbon-dated disruption of its occupation layers suggest not only environmental catastrophe (likely earthquake-induced floods and liquefaction) but also the potential loss of a distinctive cultural-linguistic community-only partially replaced by the late Jinsha culture before full Han incorporation (14)(12).

Similarly, the stratified mortuary piles, ceremonial drums, and elaborate bronze artifacts of Dian, Mimo, and adjacent polities vanished as Han imperial administration and resettlement advanced into Southwest China and northern Vietnam. These processes did not, however, erase all traces: by tracking substratal phonological, lexical, and ritual survivals (as in Vietnamese and Cantonese), modern research is now actively reconstructing the contours of lost polities and populations (15).

IV. Synthesis and Analytical Summary



The confluence of comparative linguistics, archaeological discovery, and ethnohistorical record overwhelmingly supports the narrative that modern Vietnamese and related Yue-descended populations arose within a complex, layered landscape of autonomous southern polities. These groups maintained their own rites, material assemblages, and linguistic forms until-and even after-the Han conquest, with substratal features persisting in phonology, vocabulary, and ritual throughout the region’s later evolutions.


Simultaneously, the archaeological, genetic, and lexical signatures of Proto-Tibetan and related groups can be traced through southwestern China along the tributaries and mountain corridors of the upper Yangtze. Their integration with or supplanting of indigenous societies around the periphery of the Shu polity and their role in the diffusion of both language and technological traditions are now established across multiple independent lines of evidence.

V. Key Findings and Summary Table 


Line of Evidence Key Findings Relevance to Research Claim
Linguistics: Numerals & Tonogenesis Vietnamese retains Austroasiatic numerals; tonal categories arise from contact with Old Chinese/Proto-Tibetan phonology Demonstrates substratal persistence amid Sinitic superstrate, supports scenario of Yue autonomy
Linguistics: Cantonese & Yue Yue dialects preserve ancient tonality, codas, and "Tai"-influenced syntactic orders Confirms substratal layering from pre-Han populations
Archaeology: Sanxingdui & Jinsha Unique ritual bronzes, stratified ceremonial pits, sudden cultural disappearance at seismic horizons Indicates locus of extinct highland populations—autonomous prior to Han and consistent with proto-Tibetan interaction
Archaeology: Metal & ceramic traditions High-fired painted ceramics, continuity of chaîne opératoire from Yangshao to Majiayao, and southwest polities Evidence of technological and demographic transmission via migration and contact
History: Southern Yue polities Nanyue, Min-yue, and peer polities maintained political autonomy, indigeneity, and ritual distinctiveness pre-Han Supports model of independent southern societies with persistent identities
History: Proto-Tibetan migration Highlands of SW China as homeland; documented migratory pathways along rivers into peripheral polities (Shu included) Affirms directionality and locus of language and population dispersal
History: Extinction and assimilation Catastrophic earthquakes, conquest, and assimilation led to the effective disappearance of these polities but with deep substratum effects Explains extinction of populations and persistence of their linguistic and ritual legacy in Vietic and Yue-descended communities
Genetics/Anthropology: Yangshao expansion Demic diffusion model for Yangshao-to-Tibetan Plateau; genetic homogeneity aligns with linguistic and archaeological data Demonstrates genetic, linguistic, and cultural unification of Proto-Sino-Tibetan expansion


Conclusion

In sum, the cumulative linguistic, archaeological, and historical evidence now paints a compelling picture of southern China's ancient past: a tableau of migratory streams, resilient autonomous societies, and layered linguistic landscapes. The substratal features in modern Vietnamese and Cantonese, derived from early Yue and other pre-Han polities, stand as living echoes of societies shaped by Proto-Tibetan migrations and the rise and fall of Bronze Age highland kingdoms like Shu, Sanxingdui, and Jinsha. The extinction of these cultures, whether by cataclysm, conquest, or gradual absorption, paradoxically ensured their survival as substrata—indelibly marking the languages and identities that followed. This multi-disciplinary, evidence-based synthesis provides firm support for the historical and linguistic scenario outlined in the original claim, and forms a foundation for future research at the intersection of historical linguistics, archaeology, and ethnohistory.


REFERENCE


1. Ancient China and the Yue - Cambridge University Press & Assessment.

2. Vietnamese Linguistics: State of the Field.

3. Proto-Sino-Tibetan language - Wikipedia

4.Workshop: Advances in Sino-Tibetan Historical-Comparative Linguistics

5. Early Sino-Vietnamese Lexical Data and the Relative Chronology of ....

6. Lacquered Words: The Evolution Of Vietnamese Under Sinitic Influences ....

7.(PDF) The Etymologies of Vietnamese Numeral Terms and Implications of ....

8.A study of Chinese influence on Vietnamese word formation

9. Chinese loans in Old Vietnamese with a sesquisyllabic phonology

10. The Oxford Handbook of Chinese Linguistics - Oxford Academic

11. Archaeological evidence for initial migration of Neolithic Proto Sino ....

12. New archeological marvels of ancient Shu civilization

13. Ancient Shu Civilization - a remarkable and enigmatic culture. (PDF) Alice Yao, Jiang Zhilong, Chen Xuexiang, Liang Yin: Bronze Age ....

14. Digs & Discoveries - Seismic Shift - Seismic Shift - Archaeology Magazine.

15. Alice Yao, Jiang Zhilong, Chen Xuexiang, Liang Yin: Bronze Age ....

16. Dispersal of Sino-Tibetan branches - Google Sites.

17. Sino-Tibetan archaeolinguistics

18. Archaeological evidence for the origin and dispersal of Proto Sino ....

19. Yangshao culture - Wikipedia.

20. (PDF) Ancient China and the Yue: Perceptions and Identities on the ....

21. 262 ASIAN PERSPECTIVES 2017 56(2).

22 Frontmatter, Early China Volume 33 - os.pennds.org

23. The Ancient Highlands of Southwest China: From the Bronze Age to the ....

24. Ancient China and the Yue: Perceptions and Identities on the Southern ....

25. Shu (kingdom) - Wikipedia.


14/8/25

Truyệncổ Dòng BáchViệt - dchph

Sưutầm và dịchthuật: dchph
Lời Mởđầu:

Ngàynay các nhàdântộchọc đều nhìnnhận, căncứ trên những khảosát khoahọc và thưtịch cổ Trunghoa, những sắctộc thiểusố hiện đang sinhsống tại miền Nam Trunghoa (Hoa Nam) ở các tỉnh Vânnam, Quếchâu, Quảngtây, Hồnam, Quảngđông, Phúckiến... đasố là hậuduệ của các dântộc được ghitrên cổthư với danhhiệu BáchViệt.

Truyềnthuyết về dântộc Việtnam cũng thuộc một chiphái của Bách Việt mà những truyềnthuyết và chuyện cổtích của dântộc Việt còn được lưulại đến ngàynay trùnghợp khôngít với những truyệncổtích của một hay nhiều sắctộc thiểusố ở Hoa Nam.

Các nhàdântộchọc Trungquốc đã thuthập rấtnhiều truyệntích và đã xuấtbản thành sách. Chúngtôi sẽ sẽ lầnlượt tuyểnchọn và dịchthuật lại những truyệncổ nầy, bắtđầu bằng những truyện gầngũi và đôikhi tươngtự như truyệncổ Việtnam. Thídụ: truyện Thầncung Bảokiếm, truyện Hậunghệ, truyện Nùng Trí Cao... của dântộc Chuang (Tráng), hoặc Chuyện Tấmcám, truyện Bànhcổ hay truyện kiểu Trạngquỳnh của dântộc Maonam... và những truyện khác liênhệ đến lịchsử trốngđồng, tục nhuộmrăng đen v.v... của những dântộc nầy (baogồm cả những truyệncổ của dântộc Kinh – tức người Việtnam dicư lánhnạn chiếntranh sang Trunghoa khoảng 5 thếkỷ trướcđây – ở Trunghoa). Phần phánđoán có phải họ cùng một tổtiên của dântộc Việtnam haykhông là để cho độcgiả tự đưara.

Lời Giớithiệu về Truyệncổ của Dântộc Chuang (Tráng)

Dântộc Chuang là một trong những sắctộc có dânsố nhiềunhất ở Trungquốc ngàynay: 23 triệu người (theo thốngkê dânsố 1982), trongsốđó 22 triệu người tậptrung sống ở tỉnh Quảngtây, số cònlại sống rảirác tại các tỉnh Vânnam, Quếchâu, Hồnam, Quảngđông v.v...

Tổtiên của dântộc Chuang trong cổthư mang rất nhiều danhxưng: Bộc, Việt, Ấu, Lạc, Ôhử, Mai, Liêu, Chuang (Tráng), v.v... Đời Nhà Minh còn được gọilà người Lang. Têngọi Chuang (Tráng) phátxuất từ chữ có âm Zhuang từ đời NhàTống. Saunày Trungquốc chínhthức gọi là Zhuang (=Tráng trong tiếng Hánviệt).

Theonhư cổthư, dântộc Chuang từ thời thượngcổ đã sinhsống quanhvùng Trungnguyên hoàlẫn với các sắctộc khác. Sách "Thượng Thư", cổsử của Trunghoa, trong mục "Mục Thệ" về chuyện Châu Vũ Vương khi chinhphạt Nhà Thương có nhắctới việc người Bộc có thamdự chiếntrận. "Dịch Châu Thư" có đềcập đến danhxưng tênnước hoặc tên dântộc nhưlà "Ấu, Đặng, Nước Quế, Tổntử, Sảnlý, Báchbộc, Cửukhổn" v.v... trongđó các têngọi Ấu, Quế, Tổntử, Bộc đều có liênhệ đến tổtiên của dântộc Chuang ngàynay.

Theo ditích khaiquật được, dântộc nầy còncó một lịchsử cổ xaxưa hơn nữa. Thídụ: Thời Đồđácũ có thihài của giốngngười "Liễugiang" mang đầyđủ nétđặctrưng của dântộc Chuang ngàynay. Thời Đồđámới tại dichỉ Ngoạ Bì Nham ở thànhphố Quếlâm, có đàothấy xươngcốt của một giốngngười tươngtự như tướngmạo người Chuang hiệntại. Chứngcớ nầy chothấy 50 ngàn năm trướcđây dântộc Chuang đã cómặt và sinhsống trong vùngnày.

Ngàynay, người Chuang tựxưng mình với nhiều têngọi khácnhau, thôngdụng nhấtlà Bốchuang, Bốthổ, Bốỷ, Bốbản, Bốviệt v.v... gần 20 têngọi khácnhau. Dântộc Chuang có tiếngnói riêng, thuộc Ngữhệ Hán-Tạng, Ngữtộc Chuang-Đồng, Ngữchi Chuang-Tày. Ướcchừng là khoảng hơn 1000 năm trướcđây, dântộc nầy đã sửdụng chữ Hán để tạo thành chữ riêng của họ gọilà chữ "Thổ Tục Tự" (phươngcách cấutạo giốngnhư chữ Nôm của Việtnam) để kýâm tiếngnói địaphương của họ, chođếnngàynay cakhúc dângian và sách bùachú vẫn còn sửdụng thứ chữ nầy để ghichép. Cóđiều là dântộc nầy có quá nhiều phươngngữ nên cách viết và ghichép không thốngnhất nhau chonên chỉ được dùng trong một phạmvi rất hạnhẹp. Ngàynay họ bắtđầu dùng mẫutự Latin để kýâm tiếngnói của họ.

Dântộc Chuang có một lịchsử vănhoá sánlạn khá lâudài. Từ thuở xaxưa đã biết trồnglúa. Tiếng Chuang gọi luágạo là "mao", chữ nầy có ghi trong thưtịch cổ.

Tiêuchí nổibật nhất của dântộc Chuang là Trốngđồng. Ngườita đã khaiquật tìmthấy trốngđồng khắpnơi trong tỉnh Quảngtây. Ở phía nam tỉnh nầy dọctheo dòng Tảgiang dài hàngtrăm câysố là những váchnúi có cảthảy khoảng 50 nơi còn lưulại những bíchhoạ ghilại cảnh sinhhoạt thờicổ của dântộc Chuang, nổitiếngnhất là bíchhoạ ở núi Ninh Minh Hoa.

Vì lýdo khôngcó văntự chonên nền vănhọc thờicổ của dântộc Chuang không được ghichép lại. Tuynhiên, theo những nghiêncứu gầnđây, thì vào thời Nhà Hán có tácphẩm của Lưu Hướng với bài "Thuyết Uyển", mục "Thượng Thuyết Biên", trongđó có ghichép sựkiện quanhệ đến "Việtnhân Ca", nếu căncứ theo cách kếtcấu ngữpháp của bàica nầy thì xemra tươngtự như ngữpháp hiệntại của tiếng Chuang. Sách "Giaochâu Ngoạivực Ký" của Thời Tamquốc có ghichép chuyện Côngchúa của Vua Lạcviệt, tức là truyện "Thầncung Bảokiếm" của dântộc Chuang, và đó cũng chínhlà truyện "Chiếc Nỏthần của An Dương Vương" của dântộc Việtnam.

Tổtiên của dântộc Chuang trong quátrình pháttriển lâudài của lịchsử, họ đã sángtạo ra một nền vănhọc truyềnkhẩu dângian phongphú gồm có thầnthoại, truyềnthuyết, truyệncổ, đồngthoại, ngụngôn và cadao. Nền vănhọc truyềnkhẩu nầy, thôngqua những hìnhtượng sinhđộng, ngônngữ chấtphát, thuậtlại nguồngốc của nhânloại, tìmtòi những bíhiểm của thiênnhiên, lígiải những hiệntượng sinhhoạt của xãhội, phảnánh quanniệm đạođức của dântộc nầy, với một trí tưởngtượng phongphú dồidào, biểulộ những mơước chơnchất mộcmạc. Họ đã dùng trí tưởngtượng phongphú của mình sángtạo nên nhiều thầnthoại, khắcphục và hoàhợp? với thiênnhiên, thídụ như truyện "Hậunghệ bắn Mặttrời".

Đốivới những conngười của thờiđại ngàynay khi đọc những thầnthoại nầy cóthể cảmthấy tứccười, nhưng thựcra thầnthoại chính là sảnphẩm của conngười thuở bansơ. Thầnthoại của dântộc Chuang, xuấtphát thànhhình từ ngànxưa từ mãnh đất do tổtiên của dântộc nầy đã sinhsống trênđó sángtạo, biểulộ những mơước và tâmtình của họ, và trên một góccạnh nhấtđịnh những thầnthoại nầy đã phảnánh nhiều mặt đờisống của họ thờicổ. Người Chuang thời thượngcổ khôngcó chữviết để lưulại dođó muốn tìmhiểu đờisống của họ thời bấygiờ ta chỉ cóthể căncứ vào nguồn vănhọc truyềnkhẩu của họ. Thầnthoại và truyềnthuyết chínhlà chìakhoá giúp ta khaimở cánhcửa bíhiểm của lịchsử nguồngốc của một dântộc, đáng đểcho những nhàxãhộihọc nghiêncứu chứ không đơnthuần chỉ để giảitrí.

Trong quátrình đấutranh để sinhtồn, thầnthoại dântôc Chuang ghilại những tấmgương anhhùng không nềhà cáichết. Truyện "Trốngđồng Đỏ" nóivề một vị nữanhhùng, xem cáichết nhẹtựalônghồng, phảnánh lên tinhthần đấutranh kiêncường bấtkhuất.

Truyệncổ của dântộc Chuang có rất nhiều, ở đây chỉ tuyểnchọn một số tiêubiểu đặcsắc của họ, và hiểu biết của người sưutập và tuyểndịch sang Việtngữ về chuyệncổ và thầnthoại Việtnam rất nôngcạn, nên cũng rất cóthể sẽ bỏsót không ít những truyệncổ rất cóthể trùnghợp với những truyệncổ Việtnam. Ngườidịch chỉ biết cậyvào hiểubiết ítỏi của mình để phánđoán mối liênhệ giữa truyệncổ của người Chuang và người Việtnam.

Vấnđề đặtra ởđây là nếu có sự trùnghợp về truyềntích dântộc, thì đó là do ngẫunhiên (thídụ như truyện "Tấmcám"), vaymượn lẫnhau (thídụ triện "Hậunghệ bắn Mặtrời") haylà bởilẽ tổtiên của dântộc Chuang và tổtiên của dântộc Việtnam là một nên cùng có những truyềnthuyết nguồngốc dântộc giốngnhau (thídụ truyện "Thầncung Bảokiếm"), nhấtlà khi cứuxét cùngvới những yếutố khác như lịchsử, địalý, ngônngữ và đặctrưng trốngđồng.

Trốngđồng là tiêuchí quantrọng nhất của dântộc? Chuang, vì ngàynay cứ mỗinăm họ có một ngày lễhội, người Chuang ănmừng khắpnơi, mang hàngtrăm trốngđồng ra gõ vang múahát; và quantrọng hơn nữa, những trốngđồng nầy đều có điêukhắc những hoavăn giốngynhư trốngđống đồng khaiquật được tại Việtnam. Họ còn có cả truyềnthuyết về "Trốngđồng" mà người Việt khôngcó. Một câuhỏi khác được đặtra: người Việt mình ngàynay không còn biết gì về trốngđồng (chúngta có trốngđồng là do khaiquật màcó chứ không phải được tổtiên truyềnlại, chúngta không biết gì về kỹthuật đúc hay ýthức về vănhoá trốngđồng như sửdụng nó trong lễhội, những gì mà chúngta khaiquật được trên địabàn chúngta đang sinhsống cóphải là thuộc về một dântộc khác?), trongkhiđó người Chuang vẫncòn sửdụng những trốngđồng nầy và nó do tổtiên họ đểlại, và họ xemđó là tiêuchí vănhoá đặcthù của dântộc họ: nhưvậy vănhoá trốngđồng là của họ hay của cả dântộc Việt, là cùng một gốc Bách Việt mà vì những lýdo lịchsữ như người Hán đôhộ dân Việt quálâu nên dân Việtnam đã đánhmất hết sởhữu và những ýthức vănhoá trốngđồng? Ngườidịch không dám đưara phánđoán và kếtluận, phầnnầy dànhriêng cho độcgiả phánxét.


x X x

Thầncung Bảokiếm

Thầnthoại Chuang

(Tríchdịch từ quyển Tráng Tộc Dângian Cốsự Tuyển, do Thượnghải Vănnghệ Xuấtbảnxã ấnhành, Thượnghải, 1984. Trang 131-138)

Ngườidịch: dchph

Thờixưa, Vua NamViệt Triệu Đà được Hoàngđế Trunghoa gởitặng cho một thanh bảokiếm, bèn dùng châubáu ngọcngà chạm lên trên và còn khắc bốn chữ "Hoà Tập Bách Việt", đêm đến thanhkiếm phátquang chóiloà, đúnglà một bảovật. Nhàvua lại mang thanh bảokiếm nầy gởitặng lại Nước Tây Ấu, vua nước Tây Ấu lại sai hoàngtử mang đến tặng cho Nước Lạc Việt. Mụcđích của họ là mongmuốn có sự giaohảo thânthiện vớinhau để giữvững dâulài nền hoàbình đangcó.

Hoàngtử nước Tây Ấu mang thanh bảokiếm đến nước Lạc Việt. Tới ngày khi chàng đã đến bênbờ tường kinhthành nước Lạc Việt thì chàng nghethấy tiếng cuờinói huyênnáo vọngra từ nộithành. Vị hoàngtử bèn leo ngồi lêntrên bờtường quansát thì thấy vị côngchúa của Vua Lạc Việt đang luyện bắncung, bắnđâutrúngđó nên đã gâynên tiếng reohò vangdậy.

Trong những năm gầnđây nước Lạc Việt gặpnạn bị một thuỷquái quấyphá, làm nước biển nhiềukhi vôcớ tràndâng ngậplụt, cuốntrôi vôsố nhàcửa hoamàu và giasúc, dânchúng mấtcửamấtnhà, lytán khổsở. Vua Lạc Việt chẳng biết làmsao nên mời thầypháp lại làmbùalàmphép. Con thuỷquái bỗng từ dưới nước phónglên nói rằng trừphi Vua Lạc Việt gã côngchúa cho nó nếukhông thì nó sẽ dấybinh tiêudiệt nước Lạc Việt. Vua Lạc Việt không biết phải làm cáchnào đành phải hứa gã côngchúa cho nó, nhưng ngài lại yêucầu con thuỷquái phải đíchthân đến cungđình cầuhôn. Nhưng đến ngày con thuỷquái tới cungđình cầuhôn mọingười ainấy đều thấy con yêutinh hiện nguyênhình: đầurắn, thấplùn, lưng mang vỏ rùa. Nàng côngchúa trôngthấy, lòng ngậptràn oánhận, không một chút dodự rút kiếm ra chém "phựt" một cái bay đứt cổ con yêutinh và nó ngã lănra chết.

Ngườita đồnđại là con yêuquái nầy có nanhvuốt rất linh, nếu nanhvuốt nầy vẫncòn, chẳngbaolâu thì con yêuquái nầy sẽ hồisinh trởlại nguyênhình. Dođó, côngchúa bèn chặtđứt bốn chân con yêu ra, thẻo nanhvuốt nầy ra, dùnglàm bánsúng cho cái nỏ. Từđóvềsau, tàinghệ thiệnxạ của nàng côngchúa ngàycàng khởisắc, bắn đâu trúng đấy. Nhờthế tiếngvang lankhắp mọinơi, aiai cũng đều biết nàng côngchúa có một cây nỏthần, và rất nhiều bộlạc lớnnhỏ khắpnơi về quyphục nước Lạc Việt. Chính cũng vìthế, côngchúa lạ càng trởnên kiêuhãnh, mỗilần nàng tậpluyện bắn cung, chỉ cho ngườixem hoanhô khen chứ không cho phêphán ồnào.

Hômđó, khi nàng đang luyện bắn cungtên trong vườn thànhnội, cái đích một cành liễu cột lũnglẵng một xâu lá trầu, và nàng nhấtquyết sẽ bắn trúng cành liễu và sẽ làm cái xâu lá trầu rơi xuống đất.

Hoàngtử nước Tây Ấu đang ngồi trên bờtường đang ngắmnhìn nàng côngchúa bắnnỏ. Chàng chỉ thoáng thấy nàng côngchúa giơ câynỏ lên, kéo dâycung rồi bungra, mũitên phóngvụt đến cành liễu, đường tên bay khônghề bị xêdịch đâm phụp đúng vào cành liễu có treo xâu lá trầu. Hoàngtử bấtgiác vỗtay hoanhô ầmĩ.

Chính vìthế làm nàng côngchúa nổigiận lên tựhỏi không biết ai chophép người nầy nhìntrộm nàng bắnnỏ? Togan thật! Nàng một tay vừa cài tên giương nỏ, mắt vừa quayqua liếcnhìn về phía bờtường thì trôngthấy một chàngtrai ngồi đó đang giương đôimắt nhìnngắm nàng. Côngchúa giận quá, nàng buông dâycung, mũitên liền bậtra hướngvề tầm ngực của chàngtrai phóngvụt đến. Chỉ trong chớpnhoáng, chỉ thấy chàngtrai ungdung rút thanhkiếm ra chờ mũitên baytới rồi gạtngang một cái, mũitên chợt trông giống như một chú chim xìu cánh rơirụng ngay xuống đất.

Nàng côngchúa liền giương nỏ bắn liền ba phát, chàng hoàngtử đều vung kiếm gạt phắt hết ba mũitên. Nàng côngchúa cảmthấy kỳlạ, nhậnra thanhkiếm của hoàngtử có thầnlực, bèn kêu chàngtrai mang đến nàng xem nhưng chàng trùtrừ không lại. Côngchúa hỏi chàngtrai từđâuđến? Tới kinthành để làmgì? Chàngtrai trảlời chobiết mình là hoàngtử nước Tây Ấu, đến kinhđô nước Lạc Việt là để giaohảo đôibên. Chàng yêucầu côngchúa dẫn chàng đi gặp Vua Lạc Việt.

Côngchúa nghĩthầm nếu để hoàngtử mang bảokiếm vào gặp phụvương rũi chàngta rút kiếm ra chém vuacha thì chắc nước chết, nàng liền đưara hai điềukiện: mộtlà chàng hoàngtử khôngđược mang thanhkiếm trênngười đến diệnkiến nhàvua, chàng phải trao thanhkiếm cho nàng giữ; hailà nếu chàng nhấtđịnh phải đeo kiếm thì chàng phải chịu bị tróicột lại mới được gặp vuacha. Chàng Hoàngtử đồngý chịu để cho nàng tróilại, khôngchịu để kiếm rời thân.

Thếlà hoàngtử chịu tróilại để điđến gặp Vua Lạc Việt. Khi gặp nhàvua, hoàngtử bèn dângtặng vị vua nầy thanhkiếm có khắc bốn chữ "Hoà Tập Bách Việt", nói là chàng thaymặt cho phụvương đến giaohảo hoàbình với Vua Lạc Việt.

Vua Lạc Việt thấy hoàngtử khôingôtuấntú, phẩmđức đều tốt, cóý muốn nhận chàng làm phòmã, nhưng lại engại côngchúa lại khôngchịu nên nhavua bèn hỏi ýkiến cô côngchúa. Thựcra trong thâmtâm nàng côngchúa đã sinhra lòng áimộ, nhậnthấy việc hoàngtử chịu trói đểđược diệnkiến vuacha chứ khôngchịu traogửi thanhkiếm cho nàng giữ là hànhvi bấtkhuất anhhào. Nghethấy vuacha hỏi ýkiến mình, nàng bấtchợt khôngkhỏi thẹn ửng máđào, nàng nói:

– Tuỳý phụvương địnhđoạt!

Saukhi hoàngtử cùng côngchúa kếthôn, haingười thươngyêu nhau thắmthiết, nhưtrâuvớicau.

Chẳngbaolâu sau, hoàngtử nhậnđược tin Vua TâyẤu lâm trọngbịnh, chàng bèn từbiệt Vua Lạc Việt và côngchúa để vềnước thăm vuacha. Nàng côngchúa sợ đườngxá xaxôi trắctrở, nàng bèn lấy thanhkiếm "Bảo Tập Bách Việt" traocho hoàngtử đeo vào người. Hai người quyếnluyến khôngnở rời nhau. Saukhi hoàngtử vềnước rồi, côngchúa cảmthấy cungthất lạnhlẽo làmsao, tronglòng trởnên sầumuộn, nàng đâmra biếnglười luyệnvõ, cungnỏ cũng khôngbuồn rớtới. Cólúc nàng chợt tưởng có bóngdáng hoàngtử thấpthoáng ngoàisân, nhưngsao nàng đợi mãi mà chẳng thấy chàng đẩy cửa bướcvào. Nàng ra mở tung song cửasổ, nhưng nàng chỉ thấy một chú quạ kêu "yaya" rồi baymất.

Vào một buổisáng nọ, khi côngchúa mớivừa mở cửa phòng độtnhiên trôngthấy một người xông vào phòng. Nhìn kỷ lại thìra là hoàngtử. Côngchúa rấtlà vuimừng, chẳng kịp hỏi chàng từđâu về là đã đưa chàng vào phòng. Cái anhchàng hoàngtử nầy mới bướcvào phòng là lậptức đưamắt ngó ngay về hướng nơi có treo chiếcnỏthần, mắt ngó láoliên. Côngchúa cảmthấy kỳquặc liền nói:

– Mớicó đixa mấy ngày, bộ chàng không nhậnra chỗ ở nữa à?

Chàng hoàngử nói:

– Sao trên kia lắm bụibặm vậy?

Côngchúa nói:

– Từ ngày chàng vềnước đếngiờ, thiếp côđơn mộtmình, nào còn tâmtrí gì đâu để tậpluyện bắncung?

Hoàngtử lấyngay cungnỏ xuống. Côngchúa nhậnthấy cửchỉ này cóđiều dịthường liền chạytới ngăncản. Hoàngtử nói:

– Uydanh của côngchúa dựa hết vào chiếcnỏthần nầy. Giảnhư không có chiếnỏ nầy, mình nghĩ là uydanh của nàng không lừnglẫy như bâygiờ. Dođó mình yêu chiếcnỏ nầy chính là vì yêu côngchúa đấy!

Vừa nói chàng vừa giươngcung bắntên ra ngoài khungcửasổ, nhưng chỉ thấy khi mũitên vừa lìa rakhỏi nỏ là bay trệchhướng đi, bay chẳngbaoxa là rơirớt ngay xuống đất.

Côngchúa nói:

– Chiếcnỏ nầy nhờcó chiếcmóng của con yêuquái dùng làm cò, không có nó là bắn không trúngđích đâu. Vợchồng ănở vớinhau bấylâunay, bộ chàng không còn nhớ việc nầy nữa chăng?

Hoàngtử nói:

– Đâuphải quên, tại côngchúa quên đưacho mình cáimáong của yêutinh. Xin côngchúa lấyra cho mình xem nào, sẵntiện luyệntập bắptay mộtchút xemnào!

Côngchúa tưởngthật bèn thò trongngười lấy chiếcmóng yêutinh ra traocho hoàngtử, cùnglúc nàng chợt nhậnra hoàngtử không đao thanhbảokiểm trên người, nàng liền hỏi:

– Hoàngtử, sao chàng không mang thanhbảokiếm vềlại?

Chàng hoàngtử nầy chợtnhiên cuốngquýt lên, nói:

– Tại mình nhớ côngchúa quá, mộtmình lén phụvương trởvề đây. Bâygiờ để mình quayvề lại lấy thanhkiếm.

Vừa nói xong, tay cầm chiếcnỏthần và chiếcmóng yêutinh ngãnhào xuống đất, độtnhiên hoàngtử biếnthành conquạ kêu "yaya" rồi baymất.

Tin nầy truyền tới tai vua Lạcviệt, ngài liền cho triệutập quầnthần lại thươngnghị. Quầnthần đều chorằng đây là vận xấu của vua nước Tâyâu, làmmất chiếcnỏthần, chắcchắn thếnào cũng mang quân chinhphạt nước Lạcviệt, thếthủ chibằng thếcông, hãy cho dấybinh tấncông nước Tâyâu trước.

Lúc bấygiờ, vua Tâyâu mới vừa mất, cảnước mới cửhành đámtáng, hoàngtử nước nầy còn đểtang, nghenói vua nước Lạcviệt dấyquân sang đánh, cảmthấy mình khólòng ứngchiến, bèn tínhchuyện đơnthânđộcmã đi hộikiến vua nước Lạcviệt để hỏira cho rõ ngọnngành. Dođó hoàngtử không thay áogiáp, đeo trên mình thanhbảokiếm "Hoà Tập Bách Việt", phóngmình lênngựa phimã chạyra biênải.

Khi hoàngtử đến nơi biênải thì chaoơi! Binhmã của vua Lạcviệt đã bốtrí trànđầy khắpnơi đennghịt dàyđặc. Mặt sôngnước nơi binhlính họ lội qua, sủibọt đenngòm, tômcá chết nổi lềnhbềnh khắpnơi. Binhlính trànqua rừngnúi đá là mọithứ như đều đỗngã hết xuống, cỏcây điêutàn.

Mộtmình hoàngtử thì làmsao chốngcự lại đước muônvạn binhmã nước Lạcviệt, đànhphải nhắm ngay doanhtrại vàng tolớn, chàng đoán đó là nơi vua Lạcviệt haylà côngchúa trú nghỉ.

Chàng hoàngtử nầy xemra cũng rất lợihại, thân mộtmìnhmộtngựa, xông tới hàngrào doanhtrại, làm đỗgãy sụpnát hết dãy hàngrào. Vua Lạcviệt đang ngồi trên mình ngựa trôngthấy binhmã của mình hỗnloạn, bèn hạlệnh cho hằngngàn cungthủ giương cungtên nhắm về phía hoàngtử mà bắn. Hoàngtử mình đeo thanhbảokiếm, chỉ thoángthấy chàng rútra hoa kiếm là hằngngàn mũitên rơirụng như mưa, thânmình chàng thì chẳng chút hềhấn gì.

Vua Lạcviệt trôngthấy đâmra hoảngkinh, mắng côngchúa:

– Xem thằngchồng phụbạc của mầy kia, nếu mầy không giếtchết nó, đừng có về đây nữa gặp tao.

Nàng côngchúa vừa xấuhổ vừa tứcgiận, vộivã cầm thương lênngựa, nhắm ngực hoàngtử đâmtới. Hoàngtử vộivả néđôngtránhtây, mấy lần lấy kiếm hất mũigiáo của côngchúa ra, chàng nói:

– Côngchúa saolại phẩnnộ thếnầy? Bỗngnhiên mangquân xâmlấn bờcõi, nay còn chínhtay mình muốn giếtchết chồng?

Côngchúa nói:

– Nhàngươi còn dám nói! Phụvương có làm điềugì saitrái đốivới ngươi? Ta đây có làm gì quấy đốivới nhà ngươi đâu mà nhàngươi đánhcắp chiếcnỏthần quốcbảo, lạicòn chuẩnbị dấybinh xâmlấn nước ta. Cái conngười vôtâmbộibạc như nhàngươi không giếtchết chorồi thì lấy gì để tạlỗi nướcnhà của ta đây, hả?

Hoàngtử nghe côngchúa nói vậy bèn cảmthấy chưnghửng ra không biết biệnbạch đốiđáp thếnào. Nàng côngchúa tưởng hoàngtử nhìnnhận chuyện nầy, liền thừacơ phóng giáo đâm tới, ngờđâu trên thânmình hoàngtử nhờcó đeo thanhbảokiếm "Hoà Tập Bách Việt", thanhkiếm nầy tựđộng hoágiải mọithứ cứu hoàngtử khỏi trúngthương. Kẻnkẻn hai tiếng, ngọngiáo của côngchúa bị cảnlại và còn làm ngọngiáo gãy rụng đứtlìa.

Hoàngtử phóng người nhảyxuống ngựa, quỳ ngay trướcmặt côngchúa, hai tay nâng thanhbảokiếm "Hoà Tập Bách Việt", khóclóc mà nói:

– Nghĩ đến tìnhnghĩaphuthê bấylâunay, không làm điềugì saitrái cả. Chẳngqua thụthân lâm trọngbịnh đànhphải quayvề nước, định thânphụ hếtbệnh là trởvề đoàntụ với côngchúa, nàongờđâu thânphụ bănghà. Giờđây cảnước đểtang, rôilại thấy nước của nàng dấybinh sang đánh, mình đây vì sinhlinh bátánh, liềumình mộtthânmộtngựa ra lâmtrận. Nàng nếu quả muốn giết mình thì rất dễ thôi, chỉtiếc là nàng bị trúngmưu kẻgian. Làmgì có chuyện đánhcắp nỏthần? Giờđây để chứngtỏ tấmlòng của mình, xin dâng thanhbảokiếm nầy, nàng muốn giết mình thì cứ xuốngtay!"

Nói xong, hoàngtử hai tay nâng thanhkiếm lên.

Côngchúa tiếpnhận thanhkiếm, nhớlại cảnhtượng hoàngtử mưumô đánhcắp chiếc nỏthần, quảthục nàng cảmthấy cửchỉ của kẻ đó với vị hoàngtử nầy không giốngnhau, nhưng côngchúa lại esợ để tìnhcảm lấnáp lại bị mắcmưu thêm lần nữa. Đangtronglúc côngchúa còn trùtrừdodự bấtquyết, vị vua Lạcviệt đúng lúc ấy đang ở đằngsau nổitrậilôiđình, ngài ralệnh:

– Tấtcả nghe đây, ta hôlên đến tiếng thứ ba nếu mà côngchúa vẫn chưa chịu xuốngtay giếtchết thằngchóchết đó, cónghĩalà côngchúa vẫncòn bị nó mêhoặc, quânbay cứ xảtên bắnchết cảhai đứanó cho ta. Neoma ta hô đến tiếng thứ hai mà côngchúa giếtchết thằnggiặc đó rồi thì chúngbay hãy thuhồi cungtên lại, quânbay có nghe chưa?

Lệnh vua đã banxuống, quânsĩ cảđoàn baovây vịhoàngtử và nàng côngchúa lại, giươngcung nhắm haingười, chuẩnbị buôngcung.

Hoàngtử nói:

– Côngchúa, xin hãy giết mình đi! Nàng khỏi bị vạlây.

Côngchúa suyngẫm lại, chơt tỉnhngộ biếtrằng người đoạt chiếc nỏthần trướcđây là do yêutinh giảdạng, nhưng khi phụphân nàng không cho cơhội giảithích tựsự, biếtlàmsaođây? Côngchúa chẳng biết tínhsao, nàng bậtkhóc tứctưởi.

Ngườita chỉ nghe vua Lạcviệt hôlên "một, hai", khi chưa đếm đến ba thì vị hoàngtử longại mình và nàng côngchúa sẽ cùng chịuchungsốphận bị nátthây dưới làntên, bèn đua lưỡiliếm kề lên cổ cứa ngang, ngãlănra cheat.

Côngchúa trôngthấy vộivả nhảy xuống ngựa, ômlấy thithể hoàngtử vào lòng, nằngphục trên người chàng khóc nứcnở. Tườngsĩ nhìnthấy cảnhtượng, taychânbủnrủn, buôngrời cungtên, chodù vua Lạcviệt đã hô đến tiếng thứ ba nhưng chẳng có ai bắn ra mũitên nào cả.

Vua Lạcviệt cảgiận, đang định nổitrậnlôiđình với đám tướngsĩ cảilệnh của ngài, độtnhiên hétlên một tiếng "Áichà", rồi đưatay ômlấy ngực. Các tướngsĩ vộivàng chạy đến đỡ, chỉ thấy một mũitên đâm thẳng từ saulưng ngài xuyênthấu ra trướcngực. Đám tướngsĩ quayđầulại nhìn thì nhìnthấy nguyêncon yêutinh tay mang nỏthần dươngdươngtựđắc đứng từ phía bênkia đầunúi cười vang:

– Nỏthần đang ở trong tay ta đây!

Nói xong chỉ thấy con yêuquái nhảylên, biếnthành một con quạđen, nhắmhướng côngchúa baytới, xà xuốngđất xà một vòng đứng hiệnnguyênhình đầu rắn, đuôi thỏ, ngườingợm thấplùn, đeo khiênggiáp đen. Nó nói:

– Côngchúa, ta và ngàng có duyênnợ vớinhau, hãy thànhhôn với ta đithôi!

Nóixong nó bướclại níu người côngchúa.

Nàngcp6ngchúa cựckỳ phẫnnộ, quayđầulại tátcho nó một bạttai làm mặtmũi thầntrí con yêutinh choángváng lạngquạng đứngkhôngvững. Nó bèn xoayngười một vòng phóng đứng lêntrên một ngọnđồi, nói:

– Côngchúa hãy ngheđây, hồitrướcđây ta biếnthành hoàngtử đến cungviện của nàng, sởdĩ ta không dám đến gần nàng bờilẽ ta chưa lấylạiđược cái móngvuốt của ta, naythì cái móngvuốt nầy đã trởvề tay ta, giờđây thânthể ta là mìnhđồngdathép, lạithêm có chiếc nỏthần trênngười, ta cóthể cướpmạngngười nàng bấtcứlúcnào. Nay ta ra hạnđịnh bắt nàng làm vợ ta, nếukhông ta sẽ dùng nỏthần bắnchết nàng là xongđời nàng ngay đây!

Nàng côngchúa phẫnnộ nhìn gã yêutinh nhưng không nói gì.

Con yêutinh kia bỗngnhiên cuộntròn mình dướiđất, rồi biếnthành vócdáng chàng hoàngtử rồi tiếnlại phía nàng, vênhmặt cười rồi nói:

– Côngchúa, nếu nàng thích vócdáng chàng hoàngtử, thìđây ta sẽ biếnthành conngười đó vĩnhviễn cho nàng, mình hãy lấynhau cho rồi.

Nàng côngchúa độtnhiên nhớlại là chàng hòngtử đã trao cho nàng thanhbảokiềm "Hoàtập Báchviệt", nàng cóthể dùng để ngăncản cungtên, bèn nâng thanhkiếm chém vụt con yêuquái. Con yêutinh rất lanhlợi, vừa thoáng thấy thầnsắc của côngchúa và vừa cảmthấy một luồng khí lạnh vụt tới, liền rụtđầu lại, nhàolăn xuốngđất biếnthành con quạđen bayvù đến ngọnđồi đằngkia. Nó đứng trên ngọnđồi kia lớntiếng nói:

– Nếu nàng không nghelời, ta bắn nỏthần đây!

Côngchúa huơ thanhbảokiếm, phithân nhảylên ngựa, phóng vềphía gã yêutinh. Con yêuquái trôngthấy, liền giương nỏ bắn tên, nàongờ khi mũitên khi bay gầnđến người côngchúa liền bị nàng dùng kiếm gạtphăng đi rơi xuống đất. Ba lần nhưvậy thì nàng côngchúa đã tiếntới trước gã yêutinh. Con yêuquái mình đốiđịch khônglại bèn phóngchạy xuống biển.

Khi nó chạy tới bên bờbiển, quayđầu lại nhìn nàng côngchúa đang đuổitheo, nói:

– Haythay côngchúa, cảmơn nàng đã tiển ta đến tận bờbiển, ta vẫn cứ nói với nàng là: nếu nàng không chịu làm vợ ta, thì ta sẽ làm dâng nước biển ngậplụt nước của nàng, tớikhiấy, nàng mới biết được sự lợihại của ta!

Con yêutinh nói xong liền phóngngười xuống biển. Nàng côngchúa esợ không đuổitheosát kịp, lậptức phóngvụt thanhkiếm về phía nó. Chỉ nghe phập một tiếng, đầu con yêuquái liền bị thanhkiếm chémđứt. Nàng côngchúa sợ con yêuquái lại hoànhình quấyphá, nên đã làm thì cho đếnnơiđếnchốn, nàng bèn phânthây con yêutinh thành đốngthịt vụn, mang vunvãi khắp đồinúi không để cho nó còn cơmay hiện nguyênhình.

Côngchúa giếtchết con yêuquái xong, cầm thanhkiếm lặngnhìn rồi bậtkhóc nứcnở. Nàng cứ khóc mãi khôngngừng, những hạtlệ biếnthành xâuchuỗi trânchân rơixuống biểncả được những contrai nhặt và ngậm vào hàm. Máuhuyết của chàng hoàngtử đỗrơi trên mãnh đặt Lạcviệt, bỡilẽ nó còn tinhkhiết chonên hoáthành dòngsuối thanhtuyền. Chođếngnàynay, khi ngưdân bắtđược contrai cạyra là tìmthấy châungọc gọilà ngọctrai, và họ nhấtđịnh phải mang những viênngọc này đến dòngsuối thanhtuyền rữasạch. Ngườita truyềntụng rằng ngọctrai nếu được rữasạch với dòngsuối nầy thì viênngọc sẽ sánglónglánh không một thứ nước nào cóthể sánhbằng.

dchph dịch

Địaphận lưutruyền truyềnthuyết nầy: vùng Kimlong, Huyện Longchâu, Tỉnh Quảngtây, Trunghoa

Ngườikểtruyện: Nôngdân bôlão

Người ghichép và hiệuđính lại: Lam Hồng-Ấn

Kỳsau: Truyềnthuyết Trốngdồng
(Thầnthoại Chuang)